BỐ THÍ BA-LA-MẬT
Thích
Trí Siêu
|
1. BỒ TÁT ÐẠO
I. Bồ Tát Ðạo
Ðịnh nghĩa Bồ Tát.
Bồ Tát là nói tắt của Bồ Ðề Tát Ðỏa tức
Bodhisattva (Sanscrit). Bodhi là giác, Sattva là hữu tình. Bodhisattva có
nghĩa là người giác ngộ. Nói như vậy thì hơi mơ hồ, vì đức Phật cũng là
người giác ngộ, A-La-Hán cũng là người giác ngộ, vậy Bồ Tát khác Phật, khác
A-La-hán chỗ nào? Có nhiều lối giải thích:
1. Trên phương diện độ sanh: A La Hán tự độ (độ mình), Bồ Tát độ tha (độ
người), còn Phật là giác hạnh viên mãn (độ mình và độ người đã xong).
2. Trên phương diện phát nguyện thì:
- A La Hán chỉ cầu thoát khỏi sinh tử luân hồi.
- Bồ Tát là người phát tâm cầu thành Phật để độ tất cả chúng sinh thoát
khỏi sinh tử luân hồi. Trên quảng đường từ lúc mới phát Bồ đề tâm
(Bodhicitta) cho đến lúc thành Phật thì gọi là Bồ Tát.
3. Trên phương diện chứng đắc thì:
- A La Hán đã phá được ngã chấp, tức chứng được 'ngã không'
(Sattvàsùnyatà), không còn chấp vào một cái Ta (Atman) hiện hữu.
- Bồ Tát cũng chứng được 'ngã không', nhưng chưa hoàn toàn được 'pháp
không' (Dharmasùnyatà).
- Phật thì đã phá hoàn toàn ngã chấp và pháp chấp, tức là thấy được
thực tướng của vạn pháp, thấy được các pháp không sinh (anutpanna), không
diệt (anirudha).
4. Trên phương diện tu trì:
- A La Hán tu theo Tứ Ðế, ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
- Bồ Tát hành Lục độ (Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền
định, Trí huệ).
- Phật thì cũng giống như Bồ Tát nhưng đã tới đích. Trên đây chỉ là
khái lược sơ về sự khác biệt giữa Phật, Bồ Tát và A La Hán.
Chúng ta là hàng Sơ phát tâm Bồ Tát thì cần chú trọng nhiều về hai phương
diện phát nguyện và tu trì. Phát nguyện là phát Bồ đề tâm tức tâm nguyện
thành Phật để cứu độ chúng sinh thoát khỏi sinh tử luân hồi, còn tu trì là
luôn luôn tìm mọi cách để thực hành Lục độ.
II. Tầm Quan Trọng Của Phát Nguyện và Hồi Hướng
Trong đạo Phật, ta thường nghe nói về Tam Ðộc tức là lòng ham muốn, giận
tức và si mê, chúng trói buộc ta trong vòng sinh tử luân hồi. Và muốn giải
thoát thì ta phải dẹp trừ chúng bằng cách bớt ham muốn, mở rộng lòng từ bi,
trau dồi giáo lý Phật Pháp. Do hiểu như vậy, 0nên nhiều người trong chúng ta
không dám mong cầu gì cả, đến chùa tụng Kinh cho vui vậy thôi chứ không
thành tâm phát nguyện và hồi hướng (trong các thời Kinh ở chùa đều có văn
phát nguyện và hồi hướng, nhưng vì không chú tâm hoặc không hiểu nên gọi là
không thành tâm), khi bố thí thì bố thí vậy thôi chứ không nghĩ gì hết. Rồi
ta cho như vậy là đúng, vì trong Thiền Tông thường nói giữ 'Tâm Không', nên
ta không dám nghĩ, không dám mong cầu gì hết, chỉ giữ Tâm Không thôi. Nếu ta
cứ làm như vậy hoài thì kiếp sau ta sẽ đầu thai thành cục đá bên lề đường,
vì cục đá cũng có Tâm Không, vô tri vô giác, không nghĩ, không biết gì cả.
Cõi Ta Bà mà chúng ta đang ở đây thuộc về cõi Dục. Chúng sanh ở đây luôn
luôn ham muốn, ham muốn ngũ dục: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ
ấm. Nhưng chúng ta quên mất một điều là tất cả chư Phật đều thị hiện thành
Phật ở cõi này, chứ không thành Phật ở hai cõi Sắc và Vô Sắc. Ðức Phật dạy
ta lìa bỏ ngũ dục chứ đâu có dạy ta lìa bỏ Niết Bàn dục (tức lòng ham muốn
đạt được Niết Bàn). Ở đời, khi làm một việc gì thì ta thường có lý do và mục
đích. Lúc nhỏ ta cắp sách đến trường, lý do là cha mẹ ta muốn cho ta nên
người. Mục đích của sự học là để được bằng tú tài. Có tú tài để được vào Ðại
Học. Vào Ðại Học mấy năm để có được một văn bằng (diplôme). Có văn bằng để
đi ra làm việc. Làm việc để có tiền. Có tiền để nuôi thân hoặc nuôi gia
đình,... Tất cả những cái 'để' đó đều là mục đích của những hành động và
việc làm của ta. Khi có mục đích là có sự mong cầu. Sự mong cầu hay ham muốn
được xem là tốt hay xấu tùy theo mục đích của nó tức là đối tượng của sự
mong cầu. Nếu ta ham muốn ngũ dục thì đó là xấu vì kết quả là ta sẽ đau khổ,
ngược lại nếu ta ham muốn học đạo, tu đạo, thì đó là một sự ham muốn tốt vì
kết quả là ta sẽ giải thoát, hưởng sự an vui của Niết Bàn. Khi ta ham muốn
vừa vừa thì gọi là mong cầu, khi ta hết lòng ham muốn và quyết chí đạt cho
được mục đích thì gọi là nguyện. Tất cả chư Phật và Bồ Tát đều là những
người đã mong cầu, đã phát nguyện năm xưa. Ta há không nhớ Ðức Phật Thích Ca
đã phát nguyện gì dưới gốc cây Bồ Ðề? Ngài nguyện: 'Dù máu khô, thịt nát,
xương tan, nếu không giác ngộ (thành Phật) ta thề không rời khỏi nơi đây.'
Ngoài ra đọc trong Túc Sanh Truyện (Jataka) kể về các tiền thân của đức
Phật, ta sẽ thấy là mỗi khi làm một hạnh gì, ngài đều phát nguyện và hồi
hướng. Phát nguyện cầu thành Phật để cứu độ chúng sanh và hồi hướng tất cả
công đức cho quả vị Phật.
Hồi hướng là gì?
Là gom góp tất cả để đặt vào một chổ. Người làm phước nhiều mà không biết
hồi hướng sẽ giống như người đi làm cho có thật nhiều tiền đem về chất đầy
nhà, rồi không biết làm gì với đống tiền đó.
Hãy lấy một thí dụ:
1. Ta đến chùa làm một việc công đức, mà trong tâm ta luôn luôn nghĩ đến
sự giàu sang sung sướng, thì kiếp sau ta sẽ được giàu sang sung sướng.
2. Cũng một việc công đức đó, mà ta hồi hướng được giải thoát sinh tử
luân hồi, thì trong những kiếp sau ta sẽ được giải thoát khỏi sinh tử luân
hồi.
3. Cũng một việc công đức đó, mà ta hồi hướng cầu thành Phật thì chắc
chắn một kiếp xa xôi nào đó ta sẽ thành Phật.
Tại sao trong thí dụ (1) nói kiếp sau, thí dụ (2) nói những kiếp sau, và
thí dụ (3) nói một kiếp xa xôi, ý nghĩa là sao?
Thí dụ (1) nói về sự giàu sang sung sướng ví như một cái áo bành tô
(manteau) trị giá 700 quan. Thí dụ (2) nói về sự giải thoát sinh tử luân hồi
ví như một chiếc xe hơi trị giá 70.000 quan. Thí dụ (3) nói về sự cầu thành
Phật ví như một căn nhà villa trị giá 700.000 quan.
Nếu ta đi làm lương một tháng là 5000 quan, và trong đầu ta không có một
mục đích gì cả, thì khi đi đường, nếu thấy một cái áo bành tô đẹp, vừa giá
ta có thể mua được thì ta mua ngay không chần chờ.
Cũng với số lương đó mà ta muốn có một chiếc xe hơi thì ta phải dành dụm
năm này qua năm nọ, không dám lấy tiền lương xài vào việc khác như mua quần
áo, thì khoảng vài năm là ta có thể có được một chiếc xe hơi.
Cũng với số lương đó mà ta muốn có một căn nhà villa thì ta phải dành dụm
lâu hơn nữa vì lương của ta quá ít so với giá tiền của cái nhà. Do đó ta
phải gom góp dành dụm tiền lương không dám xài hoang phí vào việc khác, mà
cốt chỉ để mua nhà. Vậy thì khoảng hai mươi năm hay hơn nữa ta mới hoàn toàn
làm chủ cái nhà (vì ở bên Pháp cho trả Crédit).
Sau ba thí dụ trên, ta thấy rằng cũng cùng một hành động (karman) cùng
một nhân (hetu) mà có quả báo khác nhau. Ðó là do tâm hồi hướng mà ra. Nếu
ta tạo công đức nhiều mà không biết hồi hướng thì uổng lắm, vì sao? Dĩ nhiên
là khi tạo công đức thì chắc chắn ta sẽ gặp quả báo tốt, nhưng uổng vì đó là
quả báo hữu lậu của thế gian, sau một thời gian ta sẽ còn lại hai bàn tay
trắng mà thôi.
Nếu thấy được tầm quan trọng của sự phát nguyện và hồi hướng thì sau này
: trước khi, trong khi, và sau khi làm một việc gì tốt ta nên phát nguyện và
hồi hướng. Và hơn nữa khi ta gặp một việc công đức nào ta sẽ vui mừng vì đó
là một cơ hội cho ta tiến mau đến mục đích (nếu là trường hợp ta thích xe
hơi hoặc căn nhà, mà không thích áo bành tô).
Vậy theo ta hiểu thì Bồ Tát là phải nhớ đến Bồ đề tâm, nhớ phát nguyện và
hồi hướng cầu thành Phật, nhưng không hiểu tại sao khi ta đọc Tâm Kinh thì
thấy trong đó có nói câu 'vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố'. Lúc đó ta
nên khởi tâm nghĩ như vầy : Bồ Tát Quán Tự Tại là bậc Diệu Giác Bồ Tát, còn
ta đây là Bào thai Bồ Tát (Bồ Tát còn nằm trong bụng mẹ). Hơn nữa Quán Tự
Tại Bồ Tát đã hiểu, đã thấy, đã chứng được tánh Không, tức thực tướng của
vạn pháp, còn ta đây không biết cái gì là phải cái gì là trái, cái gì tốt
cái gì xấu, cái gì là Từ Bi cái gì là ác độc, nói chi đến tánh Không với
tánh Có. Ta đừng làm giống như người đang đi trên sông, thấy người khác đến
bờ vứt bỏ con thuyền, mà ở đây ta cũng vội vàng lấy búa ra đập thủng thuyền
của mình. Ta phải luôn luôn ý thức nhìn lại xem mình là ai? Em bé lên 3,
thanh niên 20, hay ông lão 70. Nếu là em bé lên 3 thì ta hãy vui vẻ tập đi,
không nên bắt chước lấy cây gậy của ông già bảy mươi mà chết sớm. Còn ngược
lại nếu thấy mình là ông lão bảy mươi thì ta cứ việc 'vô trí diệc vô đắc, dĩ
vô sở đắc cố', không ai cấm cản vì đạo Phật là đạo tự giác không có bắt buộc
hay độc tài.
Sau khi hiểu được sự phát Bồ đề tâm cũng như sự phát nguyện và hồi hướng
của Bồ Tát, ta bước sang phần thực hành của Bồ Tát tức Lục Ðộ.
À, hình như chúng ta quên mất một điều, là không biết tại sao Bồ Tát lại
phát Bồ đề tâm? Mục đích của Bồ đề tâm là thành Phật cứu độ chúng sanh,
nhưng lý do và căn nguyên của sự phát Bồ đề tâm là gì? Bồ Tát phát Bồ đề
tâm, lý do vì Bồ Tát thấy chúng sanh đau khổ nên muốn cứu khổ chúng sanh,
muốn cứu khổ chúng sanh nên mới cầu thành Phật tức cầu sự giác ngộ hoàn
toàn.
Bồ Tát là những người ý thức được sự đau khổ của cuộc đời, thấy rõ được
sự bất công, sự đàn áp, bóc lột, lợi dụng, tàn hoại, ác độc của chính con
người tạo cho con người. Nếu Bồ Tát chỉ ngồi một chỗ, cần gì hô lên một
tiếng, có người đem đến dâng cho, thì Bồ Tát khó ý thức được sự khó khăn, đổ
mồ hôi sôi nước mắt của người dâng cho mình. Nếu không tự thân chứng nghiệm
đau khổ, thì ít nhất Bồ Tát cũng tập ý thức sự có mặt của đau khổ nơi mọi
loài. Vì có đau khổ nên mới có đạo Phật, nếu không có đau khổ thì không có
đạo Phật. Bồ Tát ý thức được sự đau khổ không phải để sợ hãi, mà là để nuôi
dưỡng lòng từ bi của mình. Bồ đề tâm của Bồ Tát cũng ví như ngọn lửa được
đốt bằng dầu đau khổ. Nếu không có dầu đau khổ thì ngọn lửa Bồ đề tâm sẽ
tắt. Do đó đối với Tứ Diệu Ðế, Bồ Tát đã thấu triệt hoàn toàn. Nếu chúng ta
muốn đi theo con đường của Bồ Tát thì chúng ta cũng cần phải học cho thông
suốt Tứ Diệu Ðế, nếu không được thì ít nhất chúng ta cũng cần phải hiểu được
'Nhị diệu đế' tức là hai Diệu đế đầu: Khổ Ðế và Tập Ðế. Và sau khi hiểu rõ
rồi thì ta hãy tiến bước trên Bồ Tát đạo, nếu không như thế thì ta chỉ là
'danh tự Bồ Tát', tức là ta đến chùa thọ bồ tát giới cho vui mà thôi.
Sau khi hiểu được nguyên nhân và mục đích của Bồ Tát, ta bước sang con
đường đi của Bồ Tát, tức Bồ Tát đạo (Bodhisattvamàrga).
Bồ Tát đạo thường được biểu hiện qua Lục độ, tức sáu hạnh, còn gọi là Lục
Ba La Mật (Pàramità) gồm có: Bố thí (Dàna), Trì giới (Sila), Nhẫn nhục
(Ksànti), Tinh tấn (Vìrya), Thiền định (Dhyàna), Trí tuệ (Prajna). Pàramità
dịch âm là Ba La Mật Ða, dịch chữ là Ðáo Bỉ Ngạn có nghĩa là đến bờ bên kia.
Lục Ba La Mật là sáu phương tiện có khả năng đưa (độ) Bồ Tát sang đến bờ bên
kia là bờ Ðại Giác, tức Phật.
Trong phạm vi nhỏ hẹp, sách này chỉ xin nói về Bố thí Ba la mật thôi. Vì
bố thí đúng với ý nghĩa của nó thì nó bao gồm cả sáu Ba la mật, nếu không
thì nhiều khi nó cũng không được gọi là Bố thí nữa.
-ooOoo-