BỐ THÍ BA-LA-MẬT
Thích
Trí Siêu
|
6. NHỮNH ÐIỀU LẦM LẪN VỀ BỐ THÍ
Qua những phần trước, ta đã có một ý niệm về
thế nào là bố thí trong sạch, hay không trong sạch, đúng đắn hay không đúng
đắn. Nhưng đó là trên phương diện giáo lý tổng quát. Sợ có nhiều người tâm
tính thành thật, chất phác không hiểu rõ, nên trong phần này ta hạy tạm lấy
những thí dụ cụ thể xảy ra thường xuyên trong đời sống sinh hoạt của chùa
chiền, để mọi người hiểu rõ hơn.
* Về Pháp thí :
Thường đi song song với pháp thí là sự khinh người. Nếu ta là một vị
thầy, thì ta không thể thực hành tài thí được, mà chỉ có thể bố thí Pháp
thôi.
Bố thí pháp là một việc rất tốt, nhưng nếu không khéo thì song song với
việc bố thí ta sẽ nhiễm phải cái tánh khinh người. Tánh này là một tánh rất
xấu, không những đạo Phật mà tất cả các đạo khác đều khuyên ta phải trừ bỏ
nó. Trong một Hội Ðoàn Phật Giáo, Tăng già khinh Tăng trẻ, Tăng trẻ khinh
Phật tử già, Phật tử già khinh Phật tử trẻ thì hậu quả của nó sẽ ra sao? Hậu
quả sẽ là Phật tử trẻ bất kính Phật tử già, Phật tử già bất kính Tăng trẻ,
Tăng trẻ bất kính Tăng già. Và trong một Hội Ðoàn mà từ trên xuống dưới, từ
dưới lên trên có một sự khinh thường và bất kính như vậy thì chắc là Hội
viên sẽ sớm rút lui. Ðạo phật không dạy ta khinh người, mà ngược lại dạy ta
tánh bình đẳng, có nghĩa là kính trọng tất cả mọi người như nhau. Xưa kia
đức Phật đâu có khinh ai, ngay cả đối với một em bé cũng vậy (Xem tích
chuyện Asoka). Chúng ta hãy noi theo hạnh của Thường Bất Khinh Bồ Tát trong
Kinh Pháp Hoa, gặp ai ngài cũng lễ lạy và nói : “Tôi chẳng dám khinh quý vị,
vì quý vị đều sẽ làm Phật”.
Nếu ta có cơ duyên học nhiều, hiểu rộng thì khi có người đến hỏi đạo, ta
nên vui lòng chỉ dẫn. Trong trường hợp ta bận tu trì, tụng niệm hay nghiên
cứu thì ta có thể dời lại khi khác, chứ ta không nên khinh người đến hỏi ta,
cho họ là chúng sinh ngu tối không biết gì. Chính vì không biết nên họ mới
đến hỏi, chứ nếu biết rồi thì họ đâu có đến, mà nếu họ không đến thì làm sao
ta có cơ hội bố thí pháp? Vì vậy ta cần phải cảm ơn họ. Trước khi, trong khi
và sau khi bố thí Pháp, ta cũng nên phát nguyện và hồi hướng. Nguyện cho
người hỏi đạo trước mặt ta mau có được trí huệ sáng suốt và hồi hướng công
đức pháp thí này cho sự giải thoát luân hồi, hoặc quả vị Phật (nếu ta là Bồ
Tát).
Hoặc giả ta tu lâu năm, có chùa to mà khinh người mới tu, có chùa nhỏ,
thì ta coi chừng sẽ có một ngày đức Phật hiện ra trách mắng ta đó! Nhưng chỉ
sợ lúc đó ta lại không nhận ra đức Phật, hoặc nếu có nhận ra đi nữa ta cũng
làm bộ nhắm mắt bịt tai không muốn nghe. Nếu vậy thì đức Phật cũng phải lắc
đầu chịu thua.
Và nếu ta để ý một chút thì ta sẽ thấy danh từ “Tu" rất nguy hiểm, vì nó
gây ra nhiều hiểu lầm và tai hại.
Ðối với một người tánh tình chất phác, khi họ nghe nói ta tu lâu rồi, họ
sẽ nể và kính trọng ta lắm, vì họ nghĩ rằng ta đã chứng được gì rồi, không
chứng được A La Hán thì chắc cũng chứng được Thượng Tọa hay Ðại Ðức. Trong
tâm họ, cho “Tu" là được cái gì, giống như đi lính vậy. Vì đi lính lâu năm
thì được lên chức quan ba, quan năm, có quyền ra oai với lính binh nhì, binh
nhất hay sĩ quan dự bị. Nhưng sự thực thì không phải vậy, Tu có nghĩa là
sửa. Thí dụ ta có một chiếc xe hơi mới mua mà bị hư, thì ta phải sửa nó. Nếu
ta là một người thợ giỏi thì chỉ trong một ngày là ta sửa xong. Nhược bằng
sửa năm ngày rồi mà chưa xong, thì ta quả là một người thợ dở. Trong trường
hợp này, ta sẽ không dám chạy cùng làng khắp xóm mà la lên rằng: 'Tôi sửa
(xe) lâu rồi, tôi sửa lâu rồi'. Cũng như thế, khi ta nói với mọi người rằng
ta Tu lâu năm rồi, đó có nghĩa là ta sửa lâu năm rồi. Sửa cái gì? Sửa những
tánh hư, tật xấu, nhất là cái tánh ngã mạn của ta. Sửa xong chưa?
Ở đây có hai giả thuyết. Nếu xong rồi thì ai lại đi nó rằng tôi sửa (tu)
lâu! Nếu nói rằng tôi sửa (tu) lâu tức là chưa xong. Nếu sửa chưa xong thì
ta phải biết mắc cở chứ! Ta tu theo đạo Phật cốt để trừ bỏ cái tánh ngã mạn
và khinh người của ta, nhưng không khéo ta lại để cho chính chữ “Tu" nó đánh
lừa ta, làm cho lòng ngã mạn, khinh người của ta lại tăng thêm. Nếu ý thức
được sự tai hại tạo nên do chữ “Tu" thì ta đừng ngần ngại thưa và đề nghị
với quý Thầy từ nay trở đi không dùng chữ “Tu" nữa mà thay thế bằng chữ
“Sửa”. Hơn nữa chữ “Tu" là một danh từ Hán việt, còn chữ “Sửa" là tiếng
Việt, nó chính xác, rõ ràng, và dể hiểu hơn, và nó lại có công năng rất lớn,
khiến cho ta ý thức được luôn luôn là mình có những tánh hư tật xấu cần phải
sửa cho xong, và cũng diệt được cái tánh ngã mạn, khinh người của ta nữa.
Chỉ có người dại dột mới hay khinh người. Vì sao? Vì khinh người tức là
khinh mình vậy! Nếu ta khinh người thì người sẽ khinh lại ta, đó tức là ta
khinh ta. Nhân quả là thế! Nếu ta hay khinh người mà lại thích người kính
trọng ta thì không thể có được. Trừ ra trường hợp ta làm quan lớn dùng thế
lực hay quyền hành bắt người khác phải kính phục ta thì có. Ngoài mặt thì họ
kính phục ta, nhưng ta đâu có biết trong tâm họ chửi rủa ta. Và nếu ta không
biết điều đó thì ta vẫn là kẻ ngu mà thôi!
Trên đây là nói về Pháp thí khinh người, đó thuộc vào loại Pháp thí không
trong sạch (avisuddha dana). Trong trường hợp ta học nhiều, hiểu rộng mà lại
có tài có tài ăn nói nữa, thì rất là may mắn cho đạo Pháp. Nhưng nếu ta ưa
thuyết pháp với mục đích cho mọi người nể ta, kính trọng ta thì đó là Pháp
thí cầu danh, cũng thuộc vào loại pháp thí không trong sạch.
Trong sự Pháp thí không trong sạch này, hiệu quả của nó cũng có hai loại:
lợi và hại. Trước hết là xét về giáo lý mà ta bố thí, xem đúng hay sai với
chánh pháp. Ðúng, là khi người nhận nghe theo đó hành trì, tu tâm sửa tánh,
tạo thiện nghiệp (kusalakarma), trong trường hợp này thì người nhận được
lợi, còn ta chả được gì cả vì lửa ngã mạn đã đốt hết rừng công đức Pháp thí
của ta. Trong trường hợp giáo lý sai với chánh pháp thì cả hai bên đều bị
hại cả.
* Về Tài thí:
Là Phật tử tại gia tức Ưu bà tắc (Upàsaka), Ưu bà di (Upàsika), ta có bổn
phận phải hộ trì Tam Bảo, có nghĩa là giúp đỡ và gìn giữ cho Phật giáo được
dài lâu. Tại sao dài lâu? Vì ta biết rõ Phật giáo dạy ta con đường giải
thoát, có lợi ích cho tất cả mọi người nên ta muốn nó dài lâu. Tùy theo khả
năng cá nhân, ta có thể giúp đỡ, bố thí tiền của hay sức lực.
Như ta đã đọc qua các phần trước, bố thí là một việc rất tốt đem lại
nhiều phước báu cho ta, và bố thí lại là một hạnh đầu tiên của Bồ Tát. Nhưng
bố thí mà không biết cách bố thí thì không đem lại lợi ích gì cả! Ta hãy tự
nhìn lại mình xem, sau bao năm bố thí, bây giờ ta thế nào? Ta bỏ chùa, ở nhà
tu rị (tức là tu một mình) ta sợ đến chùa vì đến đó có người ra quyên tiền
ta, rồi ta bất mãn rao lên rằng chùa này làm tiền, chùa kia làm tiền. Tất cả
những cái đó có là do tại ta, vì trước kia ta đã không học cách bố thí. Gặp
Thầy nào bố thí Thầy đó, nhất là hay ưa bố thí các Thầy tu lâu để được phước
hay để lấy danh. Rồi Thầy muốn cái gì là ta dâng cái ấy. Dâng riết đến lúc
hết dâng được thì ta chạy trốn luôn, không dám gặp Thầy nữa.
Khi đến chùa, gặp một việc kêu gọi bố thí hay cúng dường thì ít nhất ta
phải suy tư một chút, xem việc đó nếu có lợi cho Thầy, cho ta, cho mọi người
thì ta hãy vui lòng bố thí. Nếu việc đó không có lợi cho Thầy, hoặc cho ta
mà có lợi cho tất cả mọi người thì ta cũng sẵn lòng bố thí (trong trường hợp
ta là Bồ Tát).
Ngoài ra đúng theo như luật xưa đức Phật để lại thì bổn phận của cận sự
nam (upasaka) và cận sự nữ (upasika) là bố thí cúng dường bốn việc cho chư
Tăng : nơi ở, quần áo, thức ăn và thuốc men. Nơi ở thì có chùa, ta có thể
đóng góp hàng tháng cho Hội, rồi Hội chi phí cho chùa. Quần áo thì ở xứ Tây
phương này quý Thầy, người nào cũng rất là đầy đủ. Thức ăn thì ta xem chừng,
lâu lâu mua gạo, hay mua rau cải đến tiếp tế, hoặc nếu không có thời giờ thì
ta có thể đưa tiền cho vị Tri khố lo giùm. Còn về thuốc men thì ta cần lưu
ý, vì ở bên Pháp này quý Thầy không đi làm chính thức nên không có 'bảo hiểm
xã hội' (Sécurité sociale), tức là khi có bệnh tật gì thì quý Thầy ráng
chịu. Vì lý do đó ta không nên bắt quý Thầy tụng đám, cầu an, cầu siêu nhiều
quá, rủi quý Thầy cảm cúm, ho lao ... hay mệnh hệ nào thì ta không có đủ
tiền lo thuốc men, lúc đó ta sẽ ân hận lắm đấy!
Ða số quý thầy ngày nay thường hay kêu gọi ta đóng góp để làm chùa to. Có
nhiều người không hiểu, cho rằng thầy tu gì mà còn ham danh lợi. Sau đó đi
rao là chùa làm tiền hoặc chùa giàu, vv... Là Phật tử chúng ta nên hiểu rằng
quý thầy do lòng từ bi muốn độ nhiều chúng sinh, đền đáp ơn Tam Bảo, hoằng
truyền chánh pháp mà bất đắc dĩ phải làm như thế. Nếu quý thầy ích kỷ chỉ lo
ngồi yên trong một cái cốc nhỏtự tu tự độ thì đỡ khổ cho quý thầy biết mấy.
Kêu gọi như vậy vừa nhọc mệt lại thêm mang tiếng, đâu có vui thú gì!
* Khi Ta bố thí cho chùa,
ta phải tập ý thức việc làm của ta, có nghĩa là ta biết lý do và mục đích
của sự bố thí, còn có nghĩa là ta phải biết phát nguyện và hồi hướng công
đức bố thí của mình. Ðược vậy thì ta sẽ không ân hận, hay hối tiếc, mà ngược
lại sẽ cảm thấy vui vẻ và an tâm. Ðây gọi là Ý thức bố thí.
* Khi bố thí (cúng dường) cho quý Thầy.
Cũng vậy, ta phải tập ý thức việc bố thí của mình. Quý Thầy là đối tượng của
sự bố thí, còn gọi là ruộng phước (punyaksetra). Vì sao? Vì chính nơi quý
Thầy là chỗ để ta gieo hạt giống phước nên gọi là ruộng phước.
- Khi ta thương hại hay tội nghiệp một vị Thầy nào đó, tu hành khổ cực mà
ta bố thí, thì vị Thầy đó trở thành ruộng phước nhỏ, vì được gieo bởi những
hạt giống thương hại (karunà), nên sẽ cho ta cây lúa nhỏ.
- Khi ta kính trọng một vị Thầy nào mà ta bố thí, thì vị Thầy đó trở
thành ruộng phước lớn, vì được gieo bởi những hạt giống kính trọng
(satkàra), nên sẽ cho ta những cây lúa lớn.
- Nếu ta vừa kính trọng vừa thương hại mà bố thí thì ta sẽ gặt được cả
hai loại lúa lớn có nhỏ có.
Trước khi cúng dường cho quý Thầy ta biết được vì thương hại hay kính
trọng, và khi đang cúng dường ta cũng biết được là ta đang cúng dường, cúng
dường xong ta biết hồi hướng công đức mà ta vừa tạo cho sự giải thoát sinh
tử của mình, hay cho quả vị Phật (nếu ta là Bồ Tát). Ðó gọi là Bố thí trong
sạch và ý thức. Ta đừng lầm lẫn 'ý thức' với 'chấp trước'. 'Ý thức' ở đây có
nghĩa là chánh niệm, biết ta đang làm gì, phải làm gì, sẽ làm gì. Còn bố thí
chấp trước không nằm trong bố thí trong sạch, vì khi bố thí cho rằng ta đây
là người cho, đây là vật bố thí, còn kia là người nhận, rồi khởi tâm ngã mạn
khinh người, hoặc trước khi bố thí đã có cái tâm cầu danh hay ngã mạn rồi,
nên khi vừa tác động thì sự bố thí đã là bố thí chấp trước rồi.
- Khi gặp một vị Thầy nào, ta lấy tài của ra gọi là cúng dường hoặc có
nhiều khi ta đưa cho vị Thầy ấy mà chả nói chả rằng gì cả, thì đó là bố thí
vô tâm và vô ý thức. Bố thí vô ý thức ta đã thấy ở trên rồi. Còn vô tâm là
sao? Vô tâm ở đây cũng có nghĩa là vô ý thức nhưng thêm vào vô ký và vô tư.
Ta học trong Kinh Kim Cang thấy nói rằng bố thí mà không bố thí mới thực là
bố thí, hoặc bố thí mà không thấy có ta là người bố thí, đây là vật bố thí,
và kia là người được bố thí. Học như vậy xong nên khi bố thí ta không dám
nghĩ gì cả, vì sợ suy nghĩ thì rơi vào chấp trước, hoặc có bố thí thì làm
sao cho nhanh để khỏi kịp ý thức được việc làm của mình, hoặc trong lúc bố
thí thì miệng nói, mắt nhìn chổ khác. Ðó gọi là bố thí vô tâm. Bố thí vô tâm
cũng phát xuất từ một tấm lòng tốt, nhưng vì không hiểu đạo nên phước báo
của nó thuộc loại hữu lậu.
Ta không nên lầm lẫn vô tâm bố thí với Tánh Không bố thí. Vô tâm bố thí
là tâm không nghĩ và không ý thức được sự bố thí trong lúc đang bố thí. Còn
tánh không bố thí thì hiểu và thực hiện được tánh Không của sự bố thí trong
lúc đang bố thí. Tánh Không bố thí chính là Bố thí Ba La Mật (dànaparamità),
nghĩa là thấy cả ba yếu tố tạo ra sự Bố thí đều không có tự tánh. Trước khi
thực hành Tánh Không bố thí, ta cần phải thực tập quán chiếu nhiều về lý
nhân duyên, tức thấy được sự tương duyên tương sinh của mọi vật, thấy rằng
các pháp phải nương vào nhau mà hiện hữu, nên không có một tự thể riêng
biệt. Khi ta quán chiếu thuần thục về Tánh Không của các pháp rồi, ta đem sự
quán chiếu đó áp dụng vào việc Bố thí, đó gọi là Tánh Không bố thí.
Khi thực hành bố thí, ta hãy nên thành thực với chính ta, xem lại ta còn
chấp trước hay không chấp trước, có lầm tánh Không với Vô tâm không? Nếu có
thì ta sửa lại, vì đó là việc nội tâm của mình, bên ngoài không ai hay cả,
cũng không có ai chấm điểm hay thưởng phạt ta cả, chỉ có chính hành động của
ta thưởng phạt ta mà thôi.
Cũng cần nói thêm về Tánh Không (Sùnyata). Tánh Không là con dao hai
lưỡi. Nếu ta hiểu được nó thì nó giúp ta sớm chặt đứt các giây vô minh trói
buộc ta. Còn ngược lại, nếu ta hiểu lầm thì nó sẽ khiến ta tạo những hành
động vô phước. Vì thế Cổ nhơn có câu: 'Thà chấp có như núi Tu Di còn hơn
chấp không như hạt cải'. Nếu ta chưa hiểu được tánh Không thì ta cứ thực
hành hữu tướng bố thí, tức là phát nguyện, ý thức, và hồi hướng, trước khi,
trong khi và sau khi bố thí. Ðó gọi là biết cách bố thí.
- Trên đây là nói qua trường hợp bố thí vì thương hại hay vì kính trọng
một vị Thầy mà ta bố thí. Còn trong trường hợp đối với một Thầy từ xa mới
đến mà ta chưa quen biết thì sao? Thì đó lại là một việc dễ xử đối với ta,
vì ta không biết quá khứ riêng tư của Thầy đó, nên ta dễ khởi tâm kính trọng
mà bố thí. Và trong lúc bố thí ta có thể nguyện như vầy: 'Con thành tâm cúng
dường Thầy, cầu cho Thầy mau đắc đạo để cứu khổ chúng sinh'. Ta có thể niệm
thầm hoặc nói thẳng ra ngoài được thì càng tốt. Ðây là một sự bố thí trong
sạch và quả báo của nó sẽ vô lượng. Vì sao? Vì người cho thành tâm và người
nhận được kính trọng . Người nhận được kính trọng hay không là tùy ở nơi tâm
người cho. Nếu ta khôn khéo biết được phước bào do sự bố thí của mình sẽ vô
lượng hay hữu lượng tùy ở nơi tâm người cho thì ta sẽ luôn luôn khởi tâm
kính trọng người nhận. Ðó là biết cách bố thí vậy.
- Bây giờ nếu có trường hợp ta không thương hại, không kính trọng, mà
cũng không ưa một vị Thầy nữa thì ta phải làm gì? Có phải bố thí không?
Ở đây lại là một vấn đề khác. Ta cần tự xét lại mình trước. Tại sao không
ưa? Không ưa chỗ nào? Sau khi xét lại nội tâm xong ta có thể xin đến gặp vị
Thầy đó để giải tỏa những điều thắc mắc đã tạo ra sự bất hòa (khi có một sự
bất hòa thì cả hai bên đều có lỗi cả). Trong trường hợp thầy và trò đều có
chí cầu tiến và phục thiện thì tốt quá. Nhưng nếu cả thầy lẫn trò đều nhận
thấy mình là đúng và người kia sai thì lúc đó đường ai nấy đi, ta được quyền
rút lui nhưng phải có trật tự, nghĩa là không được tạo khẩu nghiệp. Sau khi
rút lui xong ta nên đi tìm một vị Thầy khác để nương cậy. Vì sao? Vì ta là
một cận sự nam hay cận sự nữ. Cận sự có nghĩa là ở gần để giúp đở và học
hỏi.
Không phải vì không ưa một Thầy mà ta ghét tất cả các Thầy khác. Không
phải vì không ưa một chùa mà ta xa lánh tất cả các chùa khác. Nếu làm như
vậy thì gọi là 'Vơ đũa cả nắm'. Thái độ nầy không tốt vì nó làm cho ta không
mở mang được kiến thức, không thực hiện được các hạnh tốt, cùng lúc đó thì
cái gọi là 'ngã kiến' của ta sẽ tăng trưởng. Và nếu ta cứ giữ mãi thái độ
'Vơ đũa cả nắm' thì ta sẽ biến thành 'Con ếch ngồi đáy giếng'.
* Lầm lẫn bố thí với trả công
Bố thí là một hành động phát ra từ tấm lòng thành, muốn cho người nhận
được an vui hạnh phúc.
Còn trả công là một hành động vô tình, tức là không có tình nghĩa gì cả,
nó dựa trên một sự đổi chác.
Khi ta đi ra ngoài đường gặp một người nghèo xin ăn, ta lấy năm cắc ra
cho họ. Ta cho vì ta thương hại, chứ không phải vì người đó làm gì cho ta.
Ta cho mà không cần được trả lại, ta chỉ cần người đó nhận cho là ta đã vui
rồi. Ðó gọi là bố thí.
Còn trả công thì khác, nó là kết quả của một sự đổi chác. Thí dụ như ta
là ông chủ một hãng. Ðến cuối tháng ta phát tiền cho nhân viên. Hành động
phát tiền của ta không được gọi là bố thí mà phải gọi là trả công. Vì sao?
Vì suốt một tháng vừa qua nhân viên đã làm việc cho ta, nên bây giờ ta phải
trả lương cho họ. Và khi ta đưa tiền cho họ, trong tâm của họ đâu có mang ơn
ta, vì họ biết đó là tiền của họ phải được. Trong tâm ta cũng vậy, tuy nhân
viên làm việc cực nhọc suốt tháng vừa qua cho sự sản xuất của hãng ta, nhưng
ta cũng đâu có mang ơn họ, vì ta trả tiền cho họ rồi mà! Giữa hai bên không
có tình nghĩa gì hết, cũng không ai mang ơn ai cả. Ta đưa tiền vì người kia
đưa công, người kia đưa công vì ta đưa tiền.
Sau khi hiểu rõ thấy được sự khác biệt giữa bố thí và trả công rồi, ta
hãy đưa mắt nhìn về chùa của mình xem sao? Xem mình có phạm cái lỗi lầm đó
không?
Ngày thường ta chả bao giờ đến chùa, tự nhiên đến bố thí hay cúng dường
các Thầy. Ðến khi trong gia đình có cha mẹ chết, lúc đó ta mới đến chùa thưa
thỉnh lễ phép rước Thầy về nhà tụng Kinh cầu siêu cho cha mẹ ta. Rồi sau khi
đám sám xong, ta rút vài tờ giấy bạc bỏ vào phong bì cúng dường cho Thầy.
Làm xong việc như vậy, ta ra về thở phào nhẹ nhõm, trong tâm nghĩ rằng đã
làm xong bổn phận đối với cha mẹ, đã làm xong bổn phận đối với ông Thầy, và
cùng lúc lại làm phước nữa chứ! Thử hỏi hành động của ta được gọi là gì? Tuy
nhiên trong cuộc thì cũng có người được chút ít. Ðó là người được thí, tức
ông Thầy : ông Thầy có được vài trăm bỏ túi đi xe lửa. Vì lầm lẫn như thế
nên ta cứ tiếp tục bố thí cái kiểu trả công. Riết rồi ban đầu Thầy đi xe
lửa, sau đến xe hơi, rồi đến tàu bay. Tới lúc đó thì ta la lên rằng chùa
giàu! Chùa giàu hay nghèo đều do ta cả. Ta phải tự hỏi ta chứ! Chùa giàu để
làm gì? Nghèo để làm gì? Nếu ta ý thức rằng sự phát triển của chùa có lợi
cho chúng ta nên phải cần tài chánh thì ta làm cho chùa giàu. Còn nếu thấy
cần nghèo thì ta làm cho chùa nghèo. Giàu không phải là một cái tội, nghèo
cũng không phải là một cái phước.
Tiền dùng đúng tiền hiền như Phật,
Bạc xài lầm bạc ác hơn ma.
Phật, ma cũng tại người ta
Chớ tiền bạc nó vốn là vô tri. (Thanh Sĩ)
Ngoài ra ta phải thông cảm cho quý Thầy chứ! Ban đầu vì lòng từ bi mà
Thầy đi cầu siêu. Cầu siêu xong ta lại bố thí cái kiểu trả công cho Thầy. Vì
sự si mê của ta, ta đã biến lòng từ bi của Thầy, ban đầu vô giá, dần dần
xuống giá còn khoảng hai ba trăm bạc. Rồi tội nghiệp quý Thầy, cứ phải è cổ
ra nhận tiền của người chết. Ta đã biến quý Thầy thành giống như các nhà Hòm
(pompes de funèbre) tức là sống nhờ người chết. Thật đáng buồn cho đạo Phật!
Sao ta có thể nhẩn tâm được như vậy?
Nói như vậy không có nghĩa là từ nay về sau ta không cầu an, cầu siêu cho
cha mẹ ta, hoặc cầu siêu xong ta không trả công cho quý Thầy nữa. Ta vẫn
tiếp tục làm, nhưng phải biết các, thêm vào nữa là lâu lâu ta lui tới chùa
xem trong chùa có cần gì giúp đỡ không thì ta phát tâm bố thí cúng dường,
không phải chờ đến khi có ai chết hay đau mới tới. Còn trong trường hợp rước
Thầy đi tụng đám xong mà ta muốn cúng dường thì ta phải tập suy nghĩ như
vầy: 'Thầy đã vì lòng từ bi tụng niệm cho cha mẹ ta, công ơn thật vô cùng,
ta chỉ biết thành tâm phát nguyện tu học Phật để mau thoát sinh tử luân hồi
và hồi hướng công đức (bố thí, phát nguyện) này cầu cho cha mẹ ta được siêu
sanh Cực lạc'. Từ lúc trước khi, trong khi, và sau khi cúng dường, ta phải
lập đi lập lại như vậy. Ta thành tâm, phát nguyện và hồi hướng, cùng lúc đó
ta xem vị Thầy trước mắt tượng trưng cho Từ bi (chứ không phải thợ tụng) và
ta hết lòng kính trọng. Nếu làm được như vậy thì ta đã biến sự trả công
thành sự bố thí trong sạch.
* Không phải chỉ có chùa chiền mới là
nơi cho ta thực hiện hạnh Bố thí
Ta có thể thực hiện bố thí ở khắp nơi với tất cả mọi loài : như cho con
chó một khúc xương, con chim một mẩu bánh mì, con kiến một hạt đường,
v...v.... Cụ thể nhất là khi ta đi ngoài đường bố thí cho người xin ăn. Tuy
nhiên khi bố thí ta cũng phải tập bố thí cho đàng hoàng không được khinh
người. Bố thí đàng hoàng hay trong sạch là ta biết phát nguyện, ý thức, và
hồi hướng trước khi, trong khi và sau khi bố thí. Thí dụ như ta gặp một bà
lão ở trong góc Metro đứng xin tiền. Ta lại gần lấy tiền ra, nhưng không đưa
liền, đứng ngay lại sửa soạn phát nguyện. Có hai trường hợp:
1) Ta xem đối tượng tức bà lão là một vị Bồ Tát hóa thân làm bà già để ta
thực hiện bố thí. Như vậy ta sẽ phát nguyện thành Phật để cứu độ chúng sinh
và hồi hướng công đức bố thí này cho quả vị Phật.
2) Nếu ta không thể xem bà lão là một hóa thân Bồ Tát được thì ta nguyện
như vầy: 'Nguyện cho bà mau thoát khỏi cảnh khổ của sinh, già, bệnh, chết,
và ta hồi hướng công đức bố thí này cầu mau giải thoát sinh tử, hoặc mau
thành Phật' (nếu ta là Bồ Tát).
Có một điều lầm lẫn mà ta hay phạm phải, đó là khi ta không ưa một vị
Thầy nào rồi thì ta ngưng luôn việc bố thí! Một vị Thầy không phải là đối
tượng duy nhất của sự Bố thí. Ta có thể về nhà bố thí cho con cho cháu, cho
gia đình họ hàng, hay cho bạn bè, xa hơn nữa là bố thí cho các Hội Từ Thiện
(Croix Rouge, Unicef, Médecins du Monde, Médecins sans frontières, ...) hoặc
cho những loài khác như chim, gà, kiến, ... Ðối tượng của sự bố thí rất rộng
rãi và bao la, quan trọng ở chỗ là ta có muốn bố thí hay không? Nếu muốn thì
ta luôn luôn tìm thấy đối tượng, còn không thì ta sẽ chả thấy ai là người
đáng cho ta bố thí cả.
* Ta nên bố thí trực tiếp
Lâu lâu nhớ đến Phật, ta mua hoa quả đem vào chùa cúng dường cho Phật.
Nhưng khi vào chùa ta không nên đưa hết cho vị Hương đăng mà nói rằng: 'Này,
cô hay chú cúng hộ tôi cho Phật'. Làm như vậy mất cả tình nghĩa của ta đối
với Phật. Và hơn nữa là ta sẽ không có cơ hội phát nguyện và hồi hướng công
đức của sự bố thí. Như thế thì dù cho ta có mua mấy xe hoa đem vào chùa cúng
Phật, cũng chả được phước đức gì cả, nhiều lắm là làm cho chùa thêm vui mắt
mà thôi. Ở ngoài đời người ta còn biết nói 'của ít lòng nhiều', huống chi ta
là con Phật mà lại bố thí 'của nhiều lòng ít' hay sao?
-ooOoo-