CẨM NANG TU ÐẠO
Hòa Thượng Quảng Khâm
Việt Dịch: Ban Phiên Dịch Vạn Phật Thánh Thành
|
CHƯƠNG I
TU
HÀNH
- 1. Tu Hành: Tìm Lại "Bản
Lai Diện Mục"
-
2. Cục Ðá Cột Chân Người Tu
- A.
Tham, Sân, Si
-
B. Ngã Mạn
- C. Thiện Ít, Ác Nhiều
- 3. Nẻo Chánh Ðể Tu Hành
- 4. Bản Sắc Của Việc Tu
1. Tu Hành: Tìm Lại "Bản Lai Diện Mục"
Pháp môn mà ta tu học là pháp Vô-thượng, là
Pháp chẳng có hình tướng gì, bởi vì nó là pháp ở trong tâm.
Xuất gia tu hành là vì mục đích tìm lại bản lai diện mục - khuôn mặt thật
của mình trước khi được cha mẹ sanh ra. Khi các bạn chưa sáng tỏ việc này
thì trí huệ chưa khai mở; cũng giống như mặt trăng bị mây đen che kín, không
thể hiển xuất quang minh được.
Tu đạo là vì giải thoát, không bị chìm đắm trong luân hồi. Coi bạn có thể
tu đến chỗ Ngũ Uẩn (Sắc, thọ, tưởng, hành, thức) đều "không" chăng?
Tu đạo thì cần trừ tham, sân, si; đạt đến chỗ thân, miệng, ý đều trong
sạch.
Từ thuở vô thủy tới nay, nghiệp chướng mà mình tạo ra thì đầy ngập như
núi cao. Ngày nay các bạn xuất gia tu hành thì cần phải tiêu trừ nghiệp
chướng của mình đi. Nếu không khéo tu hành, mà ngược lại, tạo tội nghiệp,
thì núi cao nghiệp chướng kia ngày càng đắp cao thêm; vĩnh viễn bạn không
còn cách gì thoát khỏi vòng sanh tử.
2. Cục Ðá Cột Chân Người Tu
A.
Tham, Sân, Si
Hễ bạn khởi tâm động niệm thì tự mình đã sai lầm rồi đó, là bởi do cái
"ngã", cái "tôi" tồn tại. Ðây là niệm rất vi tế; chỉ do niệm này bắt đầu
khởi dậy, mà tất cả ý nghĩ khác dấy lên.
Cứ chê kẻ khác sai, kẻ khác xấu, còn mình thì luôn luôn đúng, luôn tốt;
nghe người ta nói mình tốt thì vui, thì thích; bị kẻ khác chê xấu thì khó
chịu, thì rầu; đó đều là nhân-ngã tướng- thấy thật có mình, có người. Khi tu
hành mà còn có tướng nhân-ngã như thế thì không thể yên ổn tu hành. Khi còn
ngã-tướng thì làm gì cũng thấy có cái "ta", coi cái "ta" này trọng lắm, phân
định ranh giới "ta" và "bọn họ" rõ ràng lắm. Như vậy thì chẳng có lợi gì cho
việc tu, mà ngày ngày lại do đó phát sinh phiền não.
Nếu bạn đắm trước, chấp chặt vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (hình
sắc, âm thanh, hương thơm, mùi vị, chạm xúc, và ý tưởng) thì trí huệ không
thể khai phát đặng.
Tai các bạn lúc nào cũng thích nghe, nghe xem có ai nói xấu mình chăng;
mắt lúc nào cũng thích nhìn hình sắc đẹp đẽ; đó là những thứ chẳng lợi cho
việc tu.
Không trừ sạch tham, sân, si, thì không có cách gì khai trí huệ đâu!
Chỉ cần tham một thứ gì đó là đủ khiến ta trở lại vòng luân hồi rồi!
Tham một thứ thì nhiều thêm một thứ. Ít đi một vọng niệm thì bớt đi một
chút nghiệp, lại tăng thêm một phần giải thoát.
Không nên nổi lòng tức giận, dù nhỏ như sợi lông; nếu không mình chẳng
thể nhập đạo đặng.
Nếu bạn vẫn còn lòng yêu đương, tình ái trong quan hệ phụ mẫu, bạn bè,
đồng sự, bà con..., thì trăm ngàn vạn kiếp bạn vẫn mãi ở trong luân hồi. Nếu
có hạt giống Phật thì sự tu hành tương đối mau hơn.
Không nên để những thứ xấu xa, rác rến chất đầy đầu não, thật là thống
khổ đấy! Không nên yêu thích cái đẹp; hãy mặc cái y này (chỉ áo cà-sa của
chư Tăng, Ni) mà trực tiếp tới cõi Tây Phương. Nếu bạn thích (mặc áo) đẹp
thì sau này khi ở Tây Phương sẽ tự nhiên có y phục đẹp mặc vào, không cần
phải may phải mua. Có kẻ chưa tới Tây Phương song hiện đã có hình dáng như ở
đó rồi.
B. Ngã Mạn
Không nên học tánh cứng đầu, cố chấp.
Không nên có ngã-chấp (luôn nghĩ tới cái "ta", luôn cho rằng "ta" đúng).
Có ngã-chấp thì trí huệ không khai mở. Ðùng nên sanh lòng cống cao ngã mạn
bởi vì nó chướng ngại đường Ðạo.
Không dẹp sạch ý niệm về "ta" và "người" (nhân-ngã tướng), thì không cách
gì giải thoát. Sư-Phụ vốn dạy mình Pháp-môn Giải-thoát; Ngài nói Pháp không
phải để thu nhập nhân tài.
Nếu kẻ có tài năng song không khéo tu hành, do đó cứ nghĩ lăng xăng, tính
toán việc này việc nọ. Tu hành là tu ở sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; là
mặc áo thô, ăn cơm đạm, coi thử bạn có khả năng tu luyện để đầu óc được
thanh tịnh hay chăng.
C. Thiện ít. Ác nhiều
Trong tâm, thế lực xấu ác thì mạnh còn khuynh hướng tốt thì yếu.
Thế tốt thì nói: "Tôi là tốt lắm đây"; thế xấu thì nói: "Tôi là tốt nhất
đây!" Tư tưởng xấu ác luôn đứng đầu, lấn át tư tưởng thiện; nên thiện chung
cuộc bị ác đè bẹp. Ðó là điều không tốt.
Từ thuở vô thủy đến nay, do ý niệm thiện trong lòng ta ít ỏi còn ý niệm
xấu ác lại nhiều, nên tự-tánh trong sạch (Phật-tánh) bị che phủ, không xuất
hiện được. Bởi vì niệm ác tích lũy ấy mà ta cứ khởi vọng niệm, thích ngủ,
thích hưởng thụ... mà không cách gì đề kháng đặng. Ðó chính là nghiệp
chướng; do đó mình phải tu để chế phục nó. Nếu không, dù bạn đi đây đi đó
nghe giảng, bạn chỉ là nghe vô một đống mà phiền não thì vẫn đầy dẫy, chẳng
chỗ nào thông đạt!
Khi nghiệp chướng tới thì phiền não khởi. Khi không chánh niệm thì tà
niệm khởi.
Lúc ấy, bạn thấy người nào cũng không hợp nhãn; thấy việc gì cũng chẳng
vừa lòng. Có kẻ vì vậy mà muốn rời bỏ chùa; hoặc có kẻ cảm thấy không có ý
vị gì nên muốn hoàn tục. Thật ra, không cần biết bạn có lý hay vô lý, hễ bạn
khởi phiền não là bạn đã sai lầm rồi đó!
Không sợ hãi thì tâm mới an định. Khi tâm sợ hãi thì không thể an định.
Sợ hãi là tâm lý chỉ cho mình cảm nhận thôi, kẻ khác không cảm thấy như
mình; do đó, chỉ có mình là bất lợi. Khi mình không tự chủ thì mới sợ. Sợ
quá, sợ hoài, thì sanh phiền não. Khi ấy, tâm không an định thì sẽ chẳng còn
Ðạo tâm tu hành nữa!
3. Nẻo Chánh Ðể Tu Hành
A. Trừ Tướng
Hỏi: Thưa Thầy, khi thực hành mới thấy không giản dị!
Ðáp: Ðừng nói là "không giản dị." Bạn cứ làm thì sẽ hết sức giản dị!
Hỏi: Song con là kẻ phàm phu cho nên...
Ðáp: Nói mình là "phàm phu", tức là chấp trước!
Hỏi: Song con không có tu hành gì...
Ðáp: Ðừng nên nói không có tu hành (rồi không tu). Bạn cần phải có lòng
tin, rằng: "Tôi cũng có khả năng thành Phật. Tôi cũng có khả năng tu tới nơi
tới chốn." Nghĩ như vậy thì bạn mới tinh tấn hơn. Ðừng nên cứ thường nói:
"Tôi, tôi..."; bởi chính nó (quan niệm về "tôi") tác quái, làm chướng ngại
bạn đấy!
Xưa kia có một vị quan từ chức, xuất gia tu hành. Ông ta sợ kẻ khác biết
được thân phận của mình do đó không hề tiết lộ thân thế cao quý (kẻ có chức
vị cao, ăn mặc đầy đủ, thì rất dễ bị đọa lạc vì phú quý không thể vĩnh cửu).
Ông ta làm đủ thứ việc thấp kém như lau chùi, quét dọn...; không ai biết
thân thế của ông. Một ngày nọ, ông ta quét dọn rồi khai ngộ! Ông ta biết ra
là xưa kia mình đã từng làm bể bao nhiêu cái chén cái bát của chùa, do đó
cấp tốc bồi thường cho chùa.
Chính vì ông ta không có ý niệm về cái "tôi" (ngã tướng) nên mới được
khai ngộ. Bởi vậy, hãy trừ sạch ngã-tướng.
Cần phải không có tâm phân biệt thì mới trừ nỗi ngã-tướng. Khi còn chấp
chặt vào ý niệm về "tôi", thì tu chẳng đến đâu. Trừ được ngã-tướng thì trí
huệ mới khai phát.
Tu hành, không thể chấp trước. Chấp trước tức sanh phiền não.
Tu Ðạo là cần trừ tham, sân, si; đạt tới thân, miệng, ý thanh tịnh.
Muốn trừ cái cái chấp về "tôi" thì phải từ nơi mặc áo thô, ăn cơm đạm mà
dụng công - giảm bớt ham muốn, không có tâm phân biệt, không suy nghĩ về
mình, về người, về chúng sanh, hay về thọ mạng.
Mọi thứ đều là anh-tôi tranh chấp mà ra. Coi xem bạn có thể tu đến chỗ
chẳng còn anh-tôi, mình-người chăng?
Bạn cần tu nhẫn; nhẫn nhục, nhẫn nại là căn bản, gốc rễ của việc tu. Nếu
bạn không thể tu nhẫn, thì chỉ uổng công mang ngoại biểu, hình tướng kẻ xuất
gia!
Ðừng nên cho mình lúc nào cũng đúng. Thái độ như vậy không thể tu tâm.
Tu hành không cần có ý niệm về "tôi." Không nên kể lể mình hồi xưa, lúc
chưa xuất gia, thì có chức phận thế này, địa vị thế nọ; nếu làm vậy thì
không thể buông bỏ mọi thứ, không thể tu Ðạo. Khi đã xuất gia thì chẳng còn
chức phận, địa vị, học lực, bằng cấp, tài năng...; mọi người đều như nhau
cả.
Tốt thì mỉm cười, xấu cũng mỉm cười; bởi tốt hay xấu đều do tâm phân biệt
đặt bày ra. Do đó, đừng phân biệt.
Khi gặp việc khiến bạn cao hứng, vui vẻ, hãy tự hỏi: "Ai đang vui vẻ?"
Khi gặp chuyện phiền não, hãy tự hỏi: "Ai đang buồn lo?"
Khi bạn có ý nghĩ không tốt, hoặc khi có phiền não, thì hãy hướng về Ðức
Phật A-Di-Ðà mà nói. Hễ những thứ ý niệm xấu ấy đến, thì đập nát chúng ngay.
Do đó bạn cần niệm Ðức A-Di-Ðà, tự nói rằng: "Phiền não! Hãy mau đi
khuất, chẳng có việc gì cho bây cả!" Ðó là dùng tâm trị tâm vậy.
B. Xả Bỏ Tâm Phân Biệt
Con đường tu cần phải trải qua gian khổ; như vậy mới có thể khai ngộ.
Không nên hy vọng mọi người đối với mình tốt; nếu người tu chẳng vậy thì
không khác gì kẻ thế tục.
Tu hành thì phải chịu thiệt thòi, thua lỗ; có vậy tu mới tiến bộ.
Tu hành là làm những việc mà không ai chịu làm; luôn dũng mãnh, tinh tấn,
chứ không phải tính toán, so đo rằng: "Việc này đâu phải để tôi làm!"; bởi
đó là thái độ chẳng khác người đời.
Làm những việc mà kẻ khác không làm, đó là cách tu phước huệ. Tu hành
không phải là làm việc tính toán so đo; không cần phải toan tính, sắp đặt.
Ðiều tốt thì góp nhặt để học; điều xấu thì vất qua một bên. Tự mình trong
lòng thông hiểu là đủ rồi; thuận theo đây mà tu hạnh Nhẫn-nhục Ba-la-mật. Tu
thì đừng hỏi "đúng" với "sai", đừng kể "hữu lý" hay "vô lý."
Tu thì đừng nói thị phi, ai đúng ai sai. Dù mình đúng lý mà người khác
nói mình sai, mình cũng cứ tiếp nhận ý kiến ấy. Hễ bạn tự nhận mình sai - dù
mình đúng - thì phiền não sẽ không khởi; bằng ngược lại, tâm bạn sẽ không
an, phiền não sẽ kéo tới.
Trên đường tu, có rất nhiều thứ không giống với đường đời, thế tục; do
đó, đừng nên tranh chấp "đúng" với "không đúng."
Xưa, có hai người đồ đệ cùng tọa Thiền, một người ngồi rất nghiêm trang,
còn người kia thì nghiêng qua ngả lại; nhưng Sư-Phụ của họ lại lấy roi quất
người ngồi nghiêm trang. Nếu là người thời nay thì có lẽ y đã nổi giận, sanh
phiền não rồi; song người đệ tử ấy thì lại vô cùng xấu hổ, thỉnh vấn Sư-Phụ
khai thị dạy bảo.
Tu hành không phải là tranh chấp "đúng" với "sai." Tu hành cần phải có
công phu nhẫn nhục; dù mình đúng mà bị trách là sai, mình cũng phải nhận
chịu.
Nếu bạn thật có lòng muốn tu, thì đó chính là phước của bạn; do vậy cần
tu cả phước lẫn huệ. Mỗi người cần trừ sạch hết những nghiệp chướng đã tạo
xưa kia, rồi đừng tạo thêm nghiệp mới nữa; như vậy thì phước, huệ sẽ tăng
gia.
(Phương pháp: Niệm Phật, lạy Phật, phát tâm làm việc lao tác ở chùa,
không tính toán. Hễ tính toán thì sanh phiền não, tức là tạo thêm nghiệp
mới.)
C. Tâm Kiên Cố
Khờ khạo mà tu hành, ngốc nghếch mà ăn uống, niệm Phật cho nhiều.
Hôm nay là hôm nay. Ngày mai là ngày mai. Chuyện gì cũng đừng rớ tay, xỏ
mũi vào. Ðó chính là tâm kiên cố, chính là tu hành.
Khi tu thì cứ tu, cần gì phải suy nghĩ, tính toán nào là đi học Phật-học,
lấy bằng cấp, làm này làm nọ? Ðó đều không phải là chuyện tu hành.
Sau này, khi tôi (Hòa-Thượng Quảng Khâm) không còn, các bạn đừng buồn;
chỉ nghe theo lời tôi mà niệm Phật, tu Khổ-hạnh. Ðối với hoàn cảnh tốt hay
xấu, đều không nên chấp trước, cần phải tùy duyên.
Tu hành cần phải gạt bỏ cái thân. áo quần, ăn uống, chỗ ở đều phải giản
dị. Cần phải mặc áo thô, ăn cơm lạt. Nếu quá chú trọng đến ăn, mặc, ở, thì
bạn nào khác gì kẻ thế tục? Khi bạn coi nhẹ việc ăn, mặc, ở, thì mới trừ nổi
tham, sân, si.
Khi những thứ ấy (áo quần, ăn uống, nhà cửa...) quá sung túc, thì dục
vọng sẽ phừng phừng, lòng tham sẽ cao ngất. Do đó, muốn buông bỏ thân tâm
thì phải từ nơi ăn, mặc, ở hạ thủ công phu.
Khi có chuyện tốt xấu gì bạn cũng đừng để hiện ra ngoài mặt. Như bạn sanh
bệnh thì chớ để kẻ khác biết bạn bị bệnh. Như tôi tuy có bệnh, song ai nhìn
tôi cũng nói: "Trông Thầy thân thể khỏe lắm"; không ai biết tôi lúc ấy có
bệnh cả.
D. Canh Gác Sáu Căn
a) Mắt
Khi thấy khuyết điểm, lỗi lầm của kẻ khác, đừng nên khỏi tâm phân biệt,
so sánh. Hãy quán sát chính mình. Ai ai cũng có Phật tánh cả.
Không nên tối ngày cứ dòm ngó lỗi xấu của người. Phải thường xuyên tự
nhìm xem mình có lỗi lầm, sai trái gì hay không. Tu như vậy mới không đi
ngược lại vời Ðạo.
Phàm thấy việc gì cũng đừng quá chấp tướng. Thấy tướng mạo tốt thì chớ
sanh lòng vui thích; thấy tướng mạo xấu cũng chớ khởi phiền não.
b) Tai
Tu hành cần phải tự tại. Ðừng để tâm vào lời dư luận phê bình bạn này nọ.
Nói bạn tốt, phê bình bạn xấu: Ðây chẳng phải là người ta sai, mà thật ra
là bạn không an định.
Người khác phê bình bạn: Chính đây là nơi bạn phải tu.
Tu hành cần có cảnh giới tới thử thách thì mình mới tu đặng. Tự tu, tự
ngộ - phiền não là Bồ-đề. Tu hành chính là tu ở chỗ đó. Khi có kẻ công kích
mà tâm bạn vẫn an nhiên, bình lặng, không nổi sóng gió; thì đó là tu.
Không phải nói rằng: "Mỗi ngày tôi lạy Phật bao nhiêu lạy, niệm Phật bao
nhiêu chuỗi"và cho như thế là đủ; phải biết đó là những nhân duyên thiết yếu
(song phải biết tu trong những lúc còn lại).
Khi bạn quét chùa sạch sẽ rồi, có Thầy lại hằn học nói bạn quét chưa
sạch. Nếu lúc đó bạn cùng Thầy ấy biện bác, giải thích, thì bạn còn tánh
tình kẻ tục. Nếu bạn chấp nhận lời mắng nhiếc, rồi trả lời: "Vâng, tôi sẽ
quét sạch ngay"; thì đó là tu hành.
Khi tu tới chỗ có chánh niệm, lòng sáng tỏ, thì tai bạn thích nghe lời
tốt hay lời xấu, bạn đều cảm nhận rất rõ. Khi tai bạn chỉ thích nghe lời hay
lời tốt, thì hãy đem lời xấu lại mà tu.
c) Miệng
Khi nói, lời lẽ cần phải tinh (chỉ nói điểm chính) và giản (đơn giản).
Khi lời không cần phải thốt ra, đừng nói!
Tu hành đừng nên thị phi (chê bai, nói xấu người khác), đừng đặt điều.
Trong đạo Phật, sợ nhất là nói thị phi. Kẻ nói chuyện thị phi là kẻ thị
phi (không đáng tin cậy), chỉ tạo khẩu nghiệp. Tu hành chính là ở chỗ này mà
tu thành; nếu không thì là kẻ chỉ biết ăn ngày ba bữa!
Ðừng nói thị phi; vì nói thị phi thì sẽ dẫn tới thất bại, và khiến kẻ
khác không được yên ổn.
Muốn nói gì về người khác, trước hết hãy tự hỏi lương tâm mình.
Ðừng phê phán người khác là sai, là có lỗi. Lời nói một khi thốt ra, bạn
đã sai trái rồi. Do đó, cái miệng thật quan trọng lắm!
Mỗi ngày phải tự huấn luyện để lòng đừng tham, đừng nói lăng nhăng.
Khi mở miệng, hãy nói về Phật Pháp, cầu sanh Tây Phương. Chủng tử "thói
quen thế tục" bạn đã trồng trong tâm quá đủ rồi; do đó, đừng nên tiếp tục
nói những lời thế tục, thi phi nữa!
Có kẻ khi nói thường làm cho người nghe phiền não, tâm không thể an định;
khiến người nghe không biết phải xử lý làm sao cho đúng. Ðã vậy, y còn làm
người ta phải nghe y mà chẳng biết y có nghe cho họ chăng? Kết quả là người
nghe phiền não, buồn bực, không cách gì giải khai nổi.
Trong chùa, không được hai, ba người tụm lại nói chuyện lăng nhăng; hoặc
kết bè đảng, phê bình người này kẻ nọ, thị phi đúng sai, trong lúc họ không
hiện diện. Nếu làm vậy sẽ dễ gây ra sự bất an trong chúng, phạm vào giới
quấy nhiễu đại-chúng.
Tu hành cần phải trong ngoài nhất trí, không tự mâu thuẫn; nghĩa là không
được "khẩu thị tâm phi" (miệng nói một đằng, tâm nghĩ một ngả).
Tu hành phải chú ý đến khẩu nghiệp. Miệng tốt thì tâm mới tốt. Ðừng cho
rằng: "Tôi miệng tuy không tốt, song lòng tốt!"
Sau khi xuất gia rồi, trong chùa vẫn có kẻ nói chuyện thị phi. Song le,
bạn đừng cùng bọn họ nói thị phi là đủ. Ðừng nên cứ mở miệng là thị phi
hoài. Kẻ nào nói phiếm, lẻo mép về chuyện người khác, thì y là kẻ thị phi.
Hễ có thời giờ rảnh rỗi, bạn hãy lạy Phật, niệm Phật.
Khi bạn khởi phiền não, buồn lo, chớ nên kiếm kẻ khác nói này nói nọ. Nói
lui nói tới, thế nào bạn cũng mắc vào thói thị phi lăng nhăng. Tốt nhất là
hãy lạy Phật cho nhiều để giải trừ phiền não.
Hỏi: Nghe Thầy giảng (về tiết thực) nên con không dám ăn nhiều quá, ăn no
quá; song sức lực yếu ớt, con phải làm sao đây?
Ðáp: Cần ăn cho đủ. Chủ yếu là không tham, không chấp trước.
Không phải là hễ thức nào ngon thì ăn nhiều một chút, thức nào dở thì ăn
ít một tí. Ðừng tham cầu hương, vị, xúc, pháp.
Khi bạn khởi ý nghĩ xấu, đừng chấp trước nó; hãy tự nhủ thầm: "Mình không
nên nghĩ ác!" Không thể dùng hình phạt, bởi vì hình phạt chỉ làm tổn hại
chính mình mà thôi.
Sự vật có tướng trạng thì dễ thấy. Việc vô hình vô tướng thì khó thấy
(như nói thị phi...); ta cần có lòng cứng rắn, đừng để bị chúng lôi kéo.
Hỏi: Có nghiệp mang theo thì làm sao khai trí huệ?
Ðáp: Niệm "Nam mô A-Di-Ðà Phật" cho nhiều.
Nếu các bạn noi gương đức hạnh của Sư-Phụ (Hòa-Thượng Quảng Khâm) thì đi
đâu cũng yên ổn cả.
Thân thể giả dối của chúng ta khó tránh bệnh tật; song, thân bệnh là bệnh
nhỏ.
Có vọng tưởng, tham, sân, si mới là bệnh lớn. Còn vọng tưởng là còn tiếp
nối chuỗi luân hồi, không dứt được vòng sanh tử.
Ðể bảo đảm có được chánh niệm ở giây phút lâm chung, bình thường mình cần
phải uống thuốc "A-Di-Ðà Phật"; nếu không, chết rồi chẳng biết về đâu!
Lúc đi, đứng, nằm, ngồi, phải luôn thể hội Phật pháp, giác ngộ đạo lý;
vậy mới không uổng phí thời gian. Thời gian qua rất chóng, phải tận dụng nó
để thể nghiệm. Nếu tu như vậy, ý nghĩ xấu mới không có cơ hội nảy sanh;
không làm vậy, sẽ không có được chánh niệm.
Khi miệng không nói thì tâm suy nghĩ; song đừng suy nghĩ những thứ có sắc
tướng, hình bóng; phải suy nghĩ thư ra ngoài sắc tướng.
E. Tâm Trường Viễn (bền bĩ lâu dài)
Bạn cho tu hành dễ lắm sao?
Bây giờ, việc chúng ta làm chỉ là thứ khổ công, khổ tu mà thôi. Bởi vì
hiện tại chúng ta chưa đoạn được tham, sân, si, do đó đây là giai đoạn tu
luyện tâm trí. Chờ khi những thứ ấy bị đoạn không còn một mảy may, thì mới
gọi là nhập Ðạo.
Tu hành không phải là việc dễ "ăn" như đậu hủ, bỏ vô miệng là có thể ăn
ngay!
Các bạn cần để 10 năm, 20 năm trì một câu "A Di Ðà Phật" không buông lơi,
cộng thêm công phu Tín, Nguyện, Hành mới được.
Nếu các cô có Ðạo-tâm, từ từ tu tới 40, 50 tuổi, không có quái ngại, trở
thành "lão sư bà", thì lúc đó các cô mới có đặng một chút xíu tự tại; song
không phải là tự tại gì lắm. Nếu các cô không ngộ Ðạo, thì dù đến 40, 50
tuổi, phiền não sẽ vẫn tràn ngập, dễ thành điên đảo.
Tu hành cần giữ Trung Ðạo (trạng thái cân bằng). Ðừng quá gấp, đừng chậm;
phải như "tế thủy trường lưu", nước chảy từ từ mà không ngừng.
Tu hành, phải giữ Trung Ðạo bằng công phu buông bỏ và nhìn thủng. Cần mặc
áo thô, ăn cơm đạm, và không chấp trước vào sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp. Song le, phải hành trì một cách tự nhiên; không phải miễn cưỡng, bày
đặt không ăn cơm, không mặc áo dù trời lạnh, hay không ngủ nghỉ để chứng tỏ
mình là một tay tu hành cừ khôi! Khi tu tới một trình độ nào đó, tự nhiên
bạn sẽ không còn biết đói, không còn cần ngủ nghỉ nữa.
Hãy tinh tấn, dũng mãnh tu hành. Tu tới lúc bạn không còn nhu yếu về ăn,
mặc, ở, thì khi ấy bạn có thể lên núi bế quan; như thế thì may ra bạn có thể
thành tựu. Nếu tu chưa tới trình độ như vậy mà bế quan, thì sau này sẽ gặp
chướng ngại.
Trong quá trình tu hành, nảy sanh phiền não là việc không tốt. Cần phải
không có phiền não, lo âu, buồn vui, thì mới tốt.
Nếu có thể mỗi ngày yên ổn, bình tĩnh để niệm Phật, lạy Phật, tu trì,
không có chuyện gì xảy ra, là tốt rồi; chớ nên vọng tưởng chuyện này chuyện
nọ.
Khi không tạo tội lỗi, thì đó là công đức rồi!
Hôm nay là hôm nay. Ngày mai là ngày
mai.
Hôm nay không xảy ra chuyện bất tường, có thể niệm Phật qua ngày, là đủ
lắm rồi.
Việc ngày mai, để ngày mai - chớ quái ngại, chớ âu lo.
4. Bản Sắc Của Việc Tu
Trừ bỏ nhân-ngã tướng (ý niệm và sự chấp trước vào quan niệm có mình và
người) là việc mà người tu phải làm cho thấu. Làm được, đó gọi là công phu
thiệt. Nếu không làm được, bạn đi tới chỗ nào, chùa nào tu cũng vô ích. Tu
tới trình độ như vậy, công phu của bạn mới thành tựu.
Chuyện gì cũng là do "tôi, anh", mình, người" tranh chấp, phân tranh mà
ra. Xem bạn có khả năng tu tới chỗ không còn "mình, người" chăng?
Cứ nhậm vận mà làm, tùy duyên qua ngày, thì chuyện gì cũng chẳng quấy
nhiễu được tâm bạn. Mọi thứ: ăn, uống, ngủ, nghỉ, mặc, ở, thị phi, vinh
nhục... hãy lạnh lùng buông bỏ chúng đi. Khi quét sạch được những ngoại
duyên ấy, thì trí huệ trong tâm sẽ tự nhiên khai phát.
Tâm bình thường chính là Ðạo: Mỗi ngày cứ giữ cho tâm đừng khởi phiền
não, âu sầu, cũng không vui vẻ thái quá. Ðối đãi với mọi người thì không tốt
cũng không xấu; cứ tùy duyên mà kết mối giao hảo với họ. Song, chớ phan
duyên, tức là đừng lợi dụng họ để thủ lợi.
Lúc nào cũng phải chú ý đến sự khởi tâm động niệm, sự suy nghĩ của mình.
Khi có ý tưởng xấu thì phải lập tức thức tỉnh, dẹp đi.
Tu hành, cần tu với thái độ vô ngại, ví như con hạc làm tổ vậy. Con hạc
không lo lắng gì về ăn uống cả; nó thích chỗ nào thì làm tổ chỗ đó. Khi nào
muốn, nó lại tung cánh bay đi nơi khác. Ðó là giống chim tự do, tự tại nhất.
Khi tu, bạn phải có thái độ "vô quái ngại" ở mọi nơi, mọi chốn. Ðược vậy,
thì tâm mới an tĩnh, mới như như bất động.
Tu hành, cần tu tới mức không còn quái ngại trong hoàn cảnh động hay
tĩnh.
Thế nào là "động và tĩnh không còn quái ngại?" Tức là ở trong hoàn cảnh
động mà tâm bạn không động: Bạn không bị hoàn cảnh động bên ngoài ảnh hưởng
làm tâm bạn lay chuyển, nghĩ ngợi. Và khi ở trong hoàn cảnh tĩnh lặng, bạn
không có ý nghĩ là yên lặng.
Phải dùng tiếng niệm Phật để quét sạch hai trạng thái bụi bặm đó, khiến
liên hoa khai mở; như vậy mới đắc chánh niệm. Khi niệm Phật, bạn cần phải
chuyển niệm - chuyển hóa, biến ác niệm thành chánh niệm!
Việc gì cũng phải buông bỏ. Buông bỏ chính là công phu.
Bình thường, đối đãi với việc gì cũng buông xả hết; không có vướng mắc,
quái ngại vào việc gì. Ðó là để tránh trường hợp lúc lâm chung, giây phút
tối hậu, vọng tưởng nổi lên lôi kéo mình vào vòng luân hồi bất tận.
Mục đích việc tu là để lúc chết, bạn không còn vướng bận, không còn quái
ngại chuyện gì cả; chỉ thảnh thơi đem theo linh quang (công đức trí huệ sáng
suốt) của chính mình mà thôi!
Tu hành, cần phải ở chỗ nào cũng tu như nhau; đâu đâu bạn cũng có thể tự
tại. Tu là tu ở chỗ này đây.
Tu hành, cần không để cho ngoại cảnh bên ngoài ảnh hưởng, lôi kéo tâm
mình.
Bạn cần chú ý tự tâm: Cần phải có niềm vui khởi dậy từ nội tâm chứ không
phải là cái vui do hoàn cảnh tốt đẹp bên ngoài đưa đến. Do đó, bạn phải luôn
quan sát tự tâm, xem xét sự suy nghĩ của mình, và đừng chú ý tới ngoại cảnh.
Phải tu tới độ "tôi chẳng có gì cả" mới được!
Tu hành là tu ở phước lẫn huệ. Tu tới lúc bạn lớn tuổi, "lão" rồi, thì
phước và huệ sẽ đầy đủ; bấy giờ, mọi người sẽ cung kính bạn (đừng tham được
cung kính khi còn trẻ, lúc còn thiếu phước huệ).
Khi bạn tu chân thật, đúng đắn, thì dù bạn ở đâu người ta cũng sẽ tìm
đến; ai ai cũng vui vẻ muốn cùng bạn đàm đạo.
Cần tu đến chỗ chánh niệm lúc nào cũng hiện tiền. Có chánh niệm thì mới
có khả năng phân biệt thế nào là đúng, thế nào là sai; rồi từ đó mà hành
động.
Tu hành, là tự mình tu. Tu tới lúc thể ngộ - ngộ cái khổ ở Ta-bà, cái khổ
phải luân hồi. Hễ ngộ một việc thì một chút trí huệ xuất hiện.
Tu hành, cần tu tới lúc có trí huệ. Chuyện gì tới tay, bạn đều biết vận
dụng nó. Khi nói, cần phải biết nói sao cho viên dung. Khi mình đã đứng vững
rồi thì mới có thể khiến cho người khác tin theo và vui vẻ tiếp nhận.
Có trí huệ mới không tạo ác nghiệp. Do đó, phải tập nuôi dưỡng tâm từ bi
và thực hành hạnh Bồ Tát.
Tu hành, cần tu cho có tướng mạo từ bi. Tu làm sao để người khác có thể
thấy được vẻ hiền hòa, từ bi trong ánh mắt của mình!
Khi một người tu hành thành tựu thì những kẻ khác sẽ được nhờ phước. Lúc
đó, ai ai cũng khởi tâm dũng mãnh, tinh tấn học theo gương người ấy.
Khi ai cũng muốn tu hành thì hãy cùng nhau khuyến khích, cùng nhau tu.
Nếu không vậy thì mọi người sẽ khởi chuyện thị phi, sanh lòng đố kỵ, tranh
chấp, và trở nên ngu si; bấy giờ, việc tu ở chùa sẽ không còn yên ổn nữa.
Tu cho tốt thì tự nhiên có người ủng hộ; chứ không phải bắt ép người ta
mà được.
Ðừng nên hy vọng, mong cầu thí chủ lại cúng dường này nọ. Ðừng ỷ lại vào
thí chủ. Bạn chỉ cần nỗ lực tu hành; khi tu thành tựu thì Thiên, Long, Bát
Bộ đều tới ủng hộ bạn.
Khi ngồi Thiền, thấy cảnh giới tốt hay xấu đều đừng chấp trước; cũng đừng
nói về nó.
Phật Pháp thì không dính mắc, ngưng trệ nơi cảnh giới Lạc, Minh và Không.
Khi thân khinh an, nhẹ nhàng, thì tâm sẽ hoan hỷ (Lạc); khi trong lòng ít
vọng niệm thì tâm sẽ sáng suốt (Minh); và khi chẳng có một ý nghĩ hay vọng
niệm sanh khởi thì đạt tới trạng thái không.
Nếu bạn vướng mắc ở cảnh giớ Lạc thì đọa và Dục-giới Thiên, chấp trước
vào cảnh giới Minh thì kẹt trong Sắc-giới Thiên, và bám chặc vào cảnh giới
Không thì mắc ở Vô-sắc-giới Thiên.
-ooOoo-