HUYỀN TRANG - NHÀ CHIÊM BÁI & HỌC GIẢ
(Hsuan-Tsang, The Pilgrim &
Scholar)
Nguyên Tác Anh Ngữ: Hòa Thượng Thích Minh Châu
Bản Dịch Việt Ngữ: Ni Sư Thích Nữ Trí Hải
Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam Tái Bản, 1989
|
IX. NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG VÀ SỰ VIÊN TỊCH CỦA PHÁP SƯ
Khi dịch xong 600 quyển Đại Bát-nhã, Pháp sư
cảm thấy cái chết gần kề và quyết định không dịch thêm gì nữa. Ngài bảo các môn
đệ rằng sau khi Ngài viên tịch, đám táng nên cử hành đơn giản, nhục thể của Ngài
nên gói trong một chiếc chiếu tre thô sơ và chôn vùi trong một góc núi xa xôi
nào, nhưng chớ gần chùa hay gần cung điện. Những môn đệ chủa Ngài đều khóc trách
Ngài đã ám chỉ sự chết chóc như thế trong khi Ngài trông còn vẻ mạnh khỏe và đầy
nhuệ khí. Pháp sư chỉ trả lời rằng Ngài tự biết mình.
Vào ngày 1-1 mùa xuân niên hiệu Lân Đức nguyên niên (năm 664 Tây lịch) Pháp
sư cố dịch bộ kinh Đại Bảo tích theo lời thỉnh cầu của các môn đệ, nhưng khi vừa
dịch được vài hàng, Ngài buông bút, vì rõ Ngài sẽ chết trước khi hoàn tất dịch
phẩm. Ngài có ý định viếng thung lũng Lan Chi cùng những nơi khác và đi chiêm
bái lần cuối cùng 10 Koti (cu-chi: tượng Phật). Sau khi đã đảnh lễ các đức Phật,
Ngài trở lại tu viện, đình chỉ việc phiên dịch và chuyên tâm vào việc tu tập
thiền quán.
Vào ngày 8, một trong những đồ đệ của Ngài tên là Huyền Giác nằm mộng thấy
ngôi chùa cao lớn đồ sộ bị sập đổ. Pháp sư nghe kể gíâc mộng này thì biết ngay
đấy là điềm báo Ngài sắp chết. Ba ngày sau, khi băng qua một cái hố Pháp sư ngã
quỵ và xương ống bị thương tích. Ngài bị ốm, sức khỏe bắt đầu suy giảm.
Vào ngày 16 và 17, ngài nằm thấy hai điềm chiêm bao: một hoa sen lớn trắng
mướt xuất hiện và hàng nghìn người đi đến tu viện trong những cỗ xe, mang theo
thức ăn và phẩm vật cúng Ngài. Khi tỉnh dậy Ngài cảm thấy sung sướng và bảo vị
trụ trì Huệ Đức rằng những giấc mộng ấy chỉ rõ luật nhân quả nhà Phật rất đúng
đắn. Đoạn Pháp sư nhờ tỳ kheo Gia Thương ghi tất cả các việc thiện mà Pháp sư đã
làm trong đời. Bảng liệt kê cho thấy Ngài đã dịch 74 bộ kinh và luận gồm 1.335
quyển. Ngài đã sơn phết tô vẽ 1.000 bóng Phật, 1.000 tượng đức Di Lặc cùng với 1
triệu tượng Phật. Ngài đã sao chép bộ Năng đoạn Kim Cang bát nhà, bộ Dược sư, bộ
Lục môn Đà-la-ni và vài bộ kinh khác, mỗi bộ chép thành một ngàn quyển. Ngài đã
cúng dường cho hơn mười ngàn vị tăng và sinh vật. Ngài lắng nghe đọc bảng liệt
kê các việc thiện đã làm và chắp tay sung sướng. Đoạn Ngài bảo tăng chúng nhóm
họp lại trong phòng. Ngài phân phát tất cả tăng phục của Ngài và cúng tiền để
làm thêm tượng Phật và mời tăng chúng dữ lễ. Vào ngày 23, Ngài cúng dường trai
tăng cho tất cả tăng chúng. Vào ngày ấy Ngài nhờ một điêu khắc gia tên là Tổng
Pháp Trí tạc một tượng Phật trong thế ngồi lúc đạt đạo để ở trong tiền đường gia
Thọ. Khi tạc xong tượng phật, Ngài từ biệt tăng chúng và những người cộng sự với
Ngài trong việc phiên dịch, với một tâm trạng hân hoan, Ngài nói: "Nhục thân độc
địa này của Huyền Trang thật đáng nhàm chán. Nay công việc đã xong, tôi quả
không nên lưu lại ở đây nữa. Tôi xin hồi hướng tất cả công đức và tri thức của
tôi cho tất cả chúng sanh, cầu mong tất cả chúng ta sẽ được sinh lên cõi trời
Đâu Suất theo học Bồ tát Di Lặc và phụng sự Ngài. Khi đức Phật lại xuống trần,
chúng ta cầu mong sẽ được xuống lại cùng với Ngài để tiến hành Phật sự cho đến
khi chúng ta đạt được mục đích tối thượng."
Sau khi nói lời từ biệt ấy, Pháp sư lại thiền định. Đoạn Ngài tụng niệm những
đoạn về lý chơn không, không của ngũ uẩn, không của 18 giới, không của 12 nhân
duyên trong lý duyên khởi từ vô minh đến lão tử, không của sự chứng ngộ và không
của ngay cả cái không. Đoạn ngài đọc lên một bài kệ tán Phật Di Lặc và lập
nguyện được tái sinh lên cõi trời Đâu Suất [Đạo gia gọi chỗ Thái Thượng lão
quân ở là Đâu Suất Thiên. (BT)]. Ngay lúc ấy hai biến cố mầu nhiệm đã xảy
ra. Vị trụ trì Huệ Đức nằm mộng thấy một nghìn hình tượng từ phương Đông đi đến
và đi vào trong phòng phiên dịch, không khí tỏa đầy hương thơm. Vào nửa đêm ngày
4 tháng 2 một vị sư điều dưỡng tên là Minh Tạng mộng thấy hai người cao lớn
chừng một trượng cầm một hoa sen trắng lớn bằng bánh xe, đóa hoa có ba lớp cành
và một ngọn lá dài hơn 2 tấc tây rất tinh khiết đẹp đẽ. Hai người đến gần Pháp
sư và bảo rằng tất cả nghiệp xấu Ngài đã làm đối với chúng sanh vô thỉ, nay đã
tiêu diệt nhờ cơn bệnh nhẹ ngài đang chịu đựng. Vậy thì Ngài nên vui mừng về
điều đó. Pháp sư chắp tay nhìn họ một lúc lâu. Đoạn Ngài để tay phải chống lên
má, tay trái để trên về phía tả, duỗi chân ra chồng lên nhau và nằm xuống phía
hữu. Ngài sắp từ trần, Ngài không cử động cũng không ăn uống gì.
Vào nửa đêm ngày thứ năm, đồ đệ của Ngài là Phổ Quang và những người khác đến
hỏi: "Thầy có chắc được tái sinh lên cõi trời Đâu Suất không?" Pháp sư trả lời:
"Chắc chắn như vậy." Nói xong, hơi thở Ngài yếu dần và Ngài tịch một cách bình
an, đến ngay những người hầu cận cũng không biết. Sau khi Ngài mất, nhục thể bắt
đầu lạnh từ chân lên đến đỉnh. Đầu Ngài còn nóng một lúc lâu. Da của Ngài vẫn
không đổi và nhục thân không thoát ra mùi gì khó chịu.
Tin Pháp sư từ trần được chuyển đến Hoàng đế do viên quan lại sứ ở Phương
Châu tên là Đâu Sư Luân. Khi nhận được tin buồn này, Hoàng đế vô cùng bi ai,
Ngài ngừng buổi thiết triều và phán: "Trẫm đã mất một quốc bảo."
Trong lúc ấy tất cả những viên chức quân sự cũng như dân sự không ngăn nổi sự
khóc thương và Hoàng đế phán: "Trẫm tiếc thương quá không thể nào tự kềm chế
được."
Ngày hôm sau, Hoàng đế lại phán với đình thần: "Thật vô cùng đáng tiếc cho
trẫm và quốc dân đã mất đi Pháp sư Huyền Trang. Chẳng khác nào như rường cột
ngôi Tăng bảo đã sụp đổ và nay chúng sanh đã mất đi người hướng dẫn. Chẳng khác
nào con thuyền đã chìm trong bể khổ mênh mông, một ngọn đèn đã tắt đi trong
phòng đầy bóng tối."
Nói xong nhà vua thở dài não nuột.
Vào ngày 26 cùng tháng ấy Hoàng Đế ra một chiếu chỉ: "Theo lời báo của Đâu Sư
Luân, Pháp sư Huyền Trang chùa Ngọc Hoa đã viên tịch. Tất cả phí tổn tống táng
sẽ do triều đình đài thọ.'
Vào ngày 6 tháng 3 lại ban một chiếu chỉ khác: "Pháp sư Huyền Trang đã viên
tịch. Việc phiên dịch kinh sách phải đình chỉ. Những bản kinh đã dịch sẽ cử
những viên chức sao chép lại như đã làm trước kia. Những bản kinh chưa dịch phải
được lưu trữ tại chùa Từ Ân không được làm hư hại hay mất mát. Những đồ đệ và
người cộng sự với Pháp sư trong việc phiên dịch, ai không thuộc vào tu viện thì
được phép trở về chùa riêng."
Vào ngày 15 tháng 3, lại ra một chiếu chỉ khác như sau: "Vào ngày tống táng
cố Pháp sư Huyền Trang ở chùa Ngọc Hoa, những tăng ni ở thủ đô sẽ đựơc phép mang
cờ lọng và đưa linh cữu đến nghĩa trang."
Những đồ đệ theo lời di chúc của Ngài đã làm một cái hòm bằng tre mang nhục
thể của thầy đến đặt trong gian phòng phiên dịch ở chùa Từ Ân. Hàng trăm đồ đệ
của Ngài khóc thương thảm thiết và dân chúng trong thủ đô vừa xuất gia vừa cư sĩ
tụ tập lại chùa để đảnh lễ lần cuối cùng.
Vào ngày 14-4, lễ tống táng được cử hành. Những tăng ni trong thủ đô cùng với
dân chúng mang năm trăm cờ lọng, tràng phan bảo cái, một áo quan bằng vàng, một
cái hòm bạc, và những cây sa-la, tất cả được trưng bày dọc đường cái để dự đám
rước. Nhạc điếu tang được cử hành không ngớt và không gian đầy những tiếng khóc
bi thảm. Dân chúng thủ đô và những người xung quanh cách 500 lý ước có hơn một
trăm ngàn đến đưa linh cữu. Mặc dù lễ tống táng được chuẩn bị rất tráng lệ, quan
tài của Pháp sư cũng vẫn được mang đi trong một áo quan bằng tre theo lời ước
nguyện cuối cùng của Ngài. Những người bán lụa ở phía Đông đã làm một cái áo
quan niết bàn bằng ba ngàn cuộn và kết hoa đẹp đẽ để đặt quan tài của Pháp sư
trên ấy, nhưng đồ đệ của Ngài không dùng đến vì sợ đi trái với di chúc. Họ đặt
ba bộ tăng phục của Pháp sư và một bộ khác đáng giá một trăm đồng tiền vàng do
triều đình cúng lên trên áo quan lộng lẫy kia trong khi quan tài của Pháp theo
sau và được đặt trên áo quan bằng tre bện. Những người chứng kiến đám rước ấy
không cầm đươc nước mắt. Đêm ấy hơn ba chục ngàn người ở lại nơi nghĩa địa.
Vào ngày thứ 15 sau khi tống táng, một buổi lễ được cử hành ở nghĩa địa trước
khi mọi người ra về. Lúc ấy, trời và đất đổi sắc, chim muông kêu tiếng bi ai. Cả
muông thú cũng còn động lòng huống nữa là người !
Chúng thương khóc vì con thuyền từ đã chìm trong khi bể dục vọng vẫn còn tràn
ngập, ánh sáng trí tuệ đã tắt trong khi đêm vô tận chìm trong bóng tối.
- [HẾT]-
-ooOoo-