HUYỀN TRANG - NHÀ CHIÊM BÁI & HỌC GIẢ
(Hsuan-Tsang, The Pilgrim &
Scholar)
Nguyên Tác Anh Ngữ: Hòa Thượng Thích Minh Châu
Bản Dịch Việt Ngữ: Ni Sư Thích Nữ Trí Hải
Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam Tái Bản, 1989
|
IV. HUYỀN TRANG, NHÀ THUYẾT GIÁO
Nhưng pháp sư không chỉ là một học giả, một
người nghiên cứu giáo lý. Ngay khi ở Trung Hoa, Ngài cũng từng lên diễn đàn
giảng kinh và đã được mọi người thán phục, tăng già cũng như cư sĩ. Trong suốt
cuộc hành trình sang Tây Vức, Ngài cũng đã nhiều lần được các vị vua và nhiều
nhân vật danh tiếng thỉnh đến thuyết pháp. Sự học rộng cùng với mức hiểu biết
sâu xa về chánh pháp khiến Ngài trở thành một trong những nhà thuyết giáo danh
tiếng nhất.
Khi Pháp sư lưu lại chùa Thiên Hoàng ở Kinh Châu trước khi qua Tây Vức, những
vị tăng và cư sĩ yêu cầu giảng giáo lý và Ngài đã giảng 3 lần Nhiếp đại thừa
luận và Tỳ-đàm tập yếu. Thính giả gồm cả thái tử ở Hán Dương và quần thần cùng
một giáo hội đông đảo vừa tăng sĩ vừa cư sĩ uyên bác. Khi thuyết pháp xong, từng
người một chất vấn, Pháp sư đều trả lời thông suốt khiến ai nấy đều hài lòng và
thái tử không ngớt ca tụng.
Khi Pháp sư ở Liang-chou (Lương Châu) hơn một tháng Ngài giảng kinh Đại-bát
Niết bàn, Nhiếp Đại thừa luận và Bát nhã Tâm kinh cho tăng già và cư sĩ.
Ở Cao Xương, trên đường sang Tây Vức, vua nước này quá thích thú về sự uyên
bác của Pháp sư nên đã cho dựng một hội trường lớn để Ngài giảng pháp. Mỗi thời
thuyết pháp, vua thân hành cầm hương đưa Pháp sư đến pháp tọa và quỳ gối để
thỉnh Pháp sư an tọa. Khi Ngài lưu lại Cao Xương thêm một tháng, Ngài giảng Bát
nhã Tâm kinh.
Khi đến thành Tô Điệp (Tokmak), gặp người Đột quyết Thổ Nhĩ Kỳ (Hô-khả-hãn)
mời Ngài đến trại, Pháp sư đã giảng Thập thiện dạy người nên có lòng từ bi đối
với mọi loại chúng sinh và giảng các pháp Ba-la-mật đưa người đến giải thoát rốt
ráo. Sau thời giảng, người Thổ Nhĩ Kỳ đảnh lễ Ngài và hoan hỉ nhận những lời
giáo huấn.
Sau cuộc du hành về phía nam, Pháp sư trở lại tu viện Nalanda. Bấy giờ người
ta không xem Ngài như một ngươi đi tìm học nữa. Ngài Giới Hiền yêu cầu Pháp sư
giảng Nhiếp đại thừa luận và Thành duy thức luận cho các tăng sĩ. Ngài bác quan
niệm của vị Pháp sư uyên bác là Simhaprabha (Sư tử Quang) cho rằng học phái Duy
thức phải được tách ra khỏi tam tạng theo như luận Trung quán.
Trên đường trở về Trung Quốc, khi Pháp sư đến kinh đô xứ Vilasana
(Tì-la-sang-noa) Ngài lưu lại 2 tháng và giảng bộ Du-già pháp-luận và bộ Đối
pháp luận. Khi đến xứ Kustana, Pháp sư giảng bộ Du-già Sư-địa luận, Đối-pháp
luận, Câu-xá luận và Nhiếp-đại-thừa luận. Ngài giảng 4 bộ kinh này trong một
ngày một đêm, có chừng một nghìn thính giả gồm cả vua xứ Kustana và những vị
tăng sĩ, cư sĩ uyên bác.
Khi Pháp sư trở về Trung Quốc dịch bộ Du-già Sư-địa luận ra tiếng Trung Hoa,
Hoàng đế Trung Quốc hỏi Ngài về nội dung tác phẩm này. Pháp sư liền giảng 17 quả
vị Bồ tát theo lời dạy của Bồ tát Di Lặc và những nét chính của tác phẩm, Hoàng
đế nghe những lời giảng của ngài lấy làm thích thú nên về sau ông đọc kỹ bộ kinh
ấy và thổ lộ những lời sau đây với đình thần:
"Trẫm đọc kinh Phật như ngắm trời dò bể không tài nào ước lượng bề sâu. Huyền
Trang đã đem giáo pháp vi diệu này từ xa xôi về. Tiếc vì bận việc quân quốc rối
ren, trẫm không thể nào đi tìm giáo lý Phật đà. Nay trẫm đã xem nguồn gốc của
giáo lý ấy, trẫm nhận thấy rằng thật khó thể biết hết đựơc bề rộng của vẻ đẹp và
hương thơm của nó. Khổng giáo, Lão giáo và chín học thuyết [Cửu lưu 9 học
phái xuất hiện trong thời Tiên Tần, Trung Quốc (BT)], so với Phật giáo chỉ
là một dải đất nhỏ trên đại dương mênh mông. Thật hoàn toàn sai lầm khi người ta
nói tam giáo đều ngang nhau."
Sau đấy, Hoàng đế ra lệnh cho chép lại những kinh và luận vừa dịch xong thành
9 bản phân phát cho các châu Ung, Lạc, Tinh, Duyên, Tương, Kinh, Dương, Lương và
Ích châu để Phật Pháp phổ biến cùng khắp.
-ooOoo-