TẠNG LUẬT
"Vinaya Pitaka" TIỂU PHẨM
"Cullavagga" Tỳ Kheo
Indachanda Nguyệt Thiên
Dịch |
TẠNG LUẬT - TIỂU PHẨM
TẬP I
IV. Chương Dàn Xếp (Samathakkhandhakaṃ)
1. Hành xử Luật với sự hiện diện (Sammukhāvinayo):
[585] Thuở ấy, đức Phật Thế Tôn ngự tại
Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapindika. Vào lúc bấy giờ, các
tỷ-kheo nhóm Lục Sư đã thực thi các hành sự: khiển trách, chỉ dạy, xua đuổi, hòa
giải, án treo. đối với các vị tỷ-kheo không có hiện diện. Các tỷ-kheo ít ham
muốn, ...(như trên)... Các vị ấy đã phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỷ-kheo nhóm Lục Sư lại thực thi các hành sự: khiển trách, chỉ
dạy, xua đuổi, hòa giải, án treo. đối với các tỷ-kheo không có hiện diện?
Sau đó, các vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn...(như trên)...
- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo nhóm Lục Sư thực thi các hành sự:
khiển trách, chỉ dạy, xua đuổi, hòa giải, án treo đối với các tỷ-kheo không có
hiện diện, có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
Đức Phật Thế-tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỷ-kheo, việc làm của những kẻ rồ dại ấy là không đúng đắn, không
hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, là sai trái, không nên làm. Này
các tỷ-kheo, tại sao những kẻ rồ dại ấy lại thực thi các hành sự: khiển trách,
chỉ dạy, xua đuổi, hòa giải, án treo đối với các tỷ-kheo không có hiện diện? Này
các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin,
...(như trên)...
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, không nên thực thi hành sự: khiển trách, chỉ dạy, xua
đuổi, hòa giải, án treo đối với các tỷ-kheo không có hiện diện. Vị nào thực thi
thì phạm tội tác ác (dukkata).
[586] Một người nói sai Pháp, nhiều người nói sai Pháp, hội chúng nói
sai Pháp. Một người nói đúng Pháp, nhiều người nói đúng Pháp, hội chúng nói đúng
Pháp.
[587] Một người nói sai Pháp thuyết phục một người nói đúng Pháp,
khiến cho (người nói đúng Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho
thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật,
đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này."
Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp
theo hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Một người nói sai Pháp thuyết phục nhiều người nói đúng Pháp, khiến cho
(nhiều người nói đúng Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy
rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là
lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu
sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo
hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Một người nói sai Pháp thuyết phục hội chúng nói đúng Pháp, khiến cho (hội
chúng nói đúng Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ,
khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời
dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự
tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo
hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Nhiều người nói sai Pháp thuyết phục một người nói đúng Pháp, khiến cho
(người nói đúng Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ,
khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời
dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự
tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo
hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Nhiều người nói sai Pháp thuyết phục nhiều người nói đúng Pháp, khiến cho
(nhiều người nói đúng Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy
rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là
lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu
sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo
hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Nhiều người nói sai Pháp thuyết phục hội chúng nói đúng Pháp, khiến cho (hội
chúng nói đúng Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ,
khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời
dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự
tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo
hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Hội chúng nói sai Pháp thuyết phục một người nói đúng Pháp, khiến cho (người
nói đúng Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho
hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của
bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự tranh
tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo hình
thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Hội chúng nói sai Pháp thuyết phục nhiều người nói đúng Pháp, khiến cho
(nhiều người nói đúng Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy
rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là
lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu
sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo
hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Hội chúng nói sai Pháp thuyết phục hội chúng nói đúng Pháp, khiến cho (hội
chúng nói đúng Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ,
khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời
dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự
tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo
hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Dứt Chín trường hợp của nửa phần tối.
[588] Một người nói đúng Pháp thuyết phục một người nói sai Pháp,
khiến cho (người nói sai Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho
thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật,
đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này."
Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo
cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Một người nói đúng Pháp thuyết phục nhiều người nói sai Pháp, khiến cho
(nhiều người nói sai Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy
rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là
lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu
sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách
hành xử Luật với sự hiện diện.
Một người nói đúng Pháp thuyết phục hội chúng nói sai Pháp, khiến cho (hội
chúng nói sai Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ,
khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời
dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự
tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách
hành xử Luật với sự hiện diện.
Nhiều người nói đúng Pháp thuyết phục một người nói sai Pháp, khiến cho
(người nói sai Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ,
khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời
dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự
tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách
hành xử Luật với sự hiện diện.
Nhiều người nói đúng Pháp thuyết phục nhiều người nói sai Pháp, khiến cho
(nhiều người nói sai Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy
rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là
lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu
sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách
hành xử Luật với sự hiện diện.
Nhiều người nói đúng Pháp thuyết phục hội chúng nói sai Pháp, khiến cho (hội
chúng nói sai Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ,
khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời
dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự
tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách
hành xử Luật với sự hiện diện.
Hội chúng nói đúng Pháp thuyết phục một người nói sai Pháp, khiến cho (người
nói sai Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho
hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của
bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự tranh
tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử
Luật với sự hiện diện.
Hội chúng nói đúng Pháp thuyết phục nhiều người nói sai Pháp, khiến cho
(nhiều người nói sai Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy
rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là
lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu
sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách
hành xử Luật với sự hiện diện.
Hội chúng nói đúng Pháp thuyết phục hội chúng nói sai Pháp, khiến cho (hội
chúng nói sai Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ,
khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời
dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự
tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách
hành xử Luật với sự hiện diện.
Dứt Chín trường hợp của nữa phần sáng.
2. Hành xử Luật bằng sự ghi nhớ (Sativinayo):
[589] Thuở ấy, đức Phật Thế Tôn ngự tại Rājagaha, Trúc Lâm
(Veluvana), nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, phẩm vị A La Hán đã
được đại đức Dabba Mallaputta chứng đạt vào lúc bảy tuổi. Vị ấy đã thành đạt tất
cả những gì một vị đệ tử cần chứng đạt. Và vị ấy không còn bất cứ việc gì cao
thượng hơn cần phải làm hoặc thêm vào (các việc) vị ấy đã làm.
[590] Khi ấy, trong khi an trú thiền ở nơi thanh vắng, một ý nghĩ suy
tầm như vầy đã khởi đến đại đức Dabba Mallaputta: "Phẩm vị A La Hán đã được
ta chứng đạt vào lúc bảy tuổi. Ta đã thành đạt tất cả những gì một vị đệ tử cần
chứng đạt. Và ta không còn bất cứ việc gì cao thượng hơn cần phải làm hoặc thêm
vào (các việc) ta đã làm. Vậy ta nên thực hiện phận sự gì cho hội chúng?"
Rồi điều này đã khởi đến cho đại đức Dabba Mallaputta: "Hay là ta nên phân bố
chỗ cư ngụ và sắp xếp các bữa ăn cho hội chúng?"
[591] Sau đó, vào buổi tối, đại đức Dabba Mallaputta đã xuất thiền và
đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Dabba Mallaputta đã bạch với đức Thế Tôn
rằng:
- Bạch ngài, ở nơi đây, khi an trú thiền ở nơi thanh vắng, một ý nghĩ suy tầm
như vầy đã khởi đến con: "Phẩm vị A La Hán đã được ta chứng đạt vào lúc bảy
tuổi. Ta đã thành đạt tất cả những gì một vị đệ tử cần chứng đạt. Và ta không
còn bất cứ việc gì cao thượng hơn cần phải làm hoặc thêm vào (các việc) ta đã
làm. Vậy ta nên thực hiện phận sự gì cho hội chúng?" Rồi bạch ngài, điều này
đã khởi đến cho con: "Hay là ta nên phân bố chỗ cư ngụ và sắp xếp các bữa ăn
cho hội chúng?" Bạch ngài con muốn phân bố chỗ cư ngụ và sắp xếp các bữa ăn
cho hội chúng.
- Này Dabba, tốt lắm, tốt lắm! Này Dabba, như vậy thì ngươi hãy phân bố chỗ
cư ngụ và sắp xếp bữa ăn cho hội chúng.
- Thưa vâng, bạch ngài. Đại đức Dabba Mallaputta đã trả lời đức Thế Tôn.
[592] Rồi đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự việc ấy đã thuyết Pháp
thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, hội chúng hãy chỉ định Dabba Mallaputta là vị phân bố chỗ
ngụ và là vị sắp xếp bữa ăn. Và này các tỷ-kheo, nên chỉ định như vầy: Trước
hết, Dabba cần được yêu cầu. Sau khi đã yêu cầu, hội chúng cần được thông báo
bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp
cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định đại đức Dabba Mallaputta là vị phân bố chỗ
ngụ và là vị sắp xếp bữa ăn. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định đại đức
Dabba Mallaputta là vị phân bố chỗ ngụ và là vị sắp xếp bữa ăn. Đại đức nào thỏa
thuận với việc chỉ định đại đức Dabba Mallaputta là vị phân bố chỗ ngụ và là vị
sắp xếp bữa ăn, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.
Đại đức Dabba Mallaputta đã được hội chúng chỉ định là vị phân bố chỗ ngụ và
là vị sắp xếp bữa ăn. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi
nhận sự việc này là như vậy.
[593] Và khi đã được chỉ định, đại đức Dabba Mallaputta đã phân bố chỗ
ngụ chung một khu vực cho các tỷ-kheo cùng nhóm. Vị ấy phân bố chỗ ngụ chung một
khu vực cho các tỷ-kheo chuyên về Kinh (nghĩ rằng): "Các vị sẽ tụng đọc Kinh
với nhau." Vị ấy phân bố chỗ ngụ chung một khu vực cho các tỷ-kheo thông
thạo về Luật (nghĩ rằng): "Các vị sẽ xác định Luật với nhau." Vị ấy phân
bố chỗ ngụ chung một khu vực cho các tỷ-kheo chuyên giảng Pháp (nghĩ rằng): "Các
vị sẽ thảo luận về Pháp với nhau." Vị ấy phân bố chỗ ngụ chung một khu vực
cho các tỷ-kheo chuyên thiền định (nghĩ rằng): "Các vị sẽ không quấy rầy lẫn
nhau." Vị ấy phân bố chỗ ngụ chung một khu vực cho các tỷ-kheo chuyên nói
chuyện thế tục, sinh hoạt có nhiều sự năng động về thân (nghĩ rằng): "Các đại
đức này cũng sẽ yên ổn với thú vui ấy." Đối với các tỷ-kheo đi đến vào buổi
tối, vị ấy đã nhập thiền đề mục ánh sáng và đã phân bố chỗ ngụ với chính ánh
sáng ấy; cho nên các tỷ-kheo cố ý đi đến vào buổi tối (nghĩ rằng): "Chúng ta
sẽ chứng kiến sự kỳ diệu về thần thông của đại đức Dabba Mallaputta." Sau
khi đi đến gặp đại đức Dabba Mallaputta, các vị ấy nói như vầy:
- Này đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ ngụ cho chúng tôi.
Đại đức Dabba Mallaputta đã nói với các vị ấy rằng:
- Các đại đức thích chỗ nào? Tôi sẽ phân bố chỗ nào?
Các vị ấy đề cập chỗ ở xa vì có chủ đích:
- Này đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ ngụ ở núi Gijjhakūta cho chúng tôi. Này
đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ ngụ ở khe núi Kẻ Cướp (Corappapāte) cho chúng
tôi. Này đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ ngụ ở sườn núi isigili, chỗ tảng đá Đen
cho chúng tôi. Này đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ ngụ ở sườn núi Vebhāra, hang
Sattapanni cho chúng tôi. Này đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ ngụ ở rừng Sīta,
động Sappasondika cho chúng tôi. Này đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ ngụ ở hẽm
núi Gomata cho chúng tôi. Này đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ ngụ ở hẽm núi
Tinduka cho chúng tôi. Này đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ ngụ ở hẽm núi Kapota
cho chúng tôi. Này đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ ngụ ở khu vườn Tapoda cho
chúng tôi. Này đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ ngụ ở vườn xoài của Jīvaka cho
chúng tôi. Này đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ ngụ ở Maddakucchi, nơi vườn nai
cho chúng tôi.
Đại đức Dabba Mallaputta đã nhập thiền đề mục ánh sáng thắp sáng ở ngón tay
và đi phía trước. Còn các vị ấy đi ở phía sau đại đức Dabba Mallaputta nhờ chính
ánh sáng ấy. Đại đức Dabba Mallaputta đã phân bố chỗ ngụ cho các vị ấy như vầy:
- Đây là giường, đây là ghế, đây là nệm, đây là gối, đây là nhà tiêu, đây là
chỗ tiểu, đây là nước uống, đây là nước rửa, đây là gậy chống, đây là qui định
của hội chúng: "Giờ này có thể đi vào. Giờ này có thể đi ra."
Đại đức Daba Mallaputta sau khi phân bố chỗ ngụ cho các vị ấy như thế rồi đã
quay trở về lại Trúc Lâm (Veluvana).
[594] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka chỉ là
các vị mới tu và phước báu ít ỏi. Các vị ấy thường nhận được những chỗ trú ngụ
kém và những bữa ăn tồi. Vào lúc bấy giờ, dân chúng ở Rājagaha muốn cúng dường
đến các tỷ-kheo trưởng lão thức ăn được sắp đặt trước gồm có: Bơ, dầu, phần ăn
ngon; và chỉ dâng đến các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka vật bình thường
theo khả năng gồm có cơm tấm và món thứ hai là cháo chua. Các vị ấy khi đi thọ
thực về sau bữa ăn đã hỏi các tỷ-kheo trưởng lão rằng:
- Bạch chư dại dức, trong nhà ăn các vị đã có thức gì? Các vị đã không có
thức gì?
Một số trưởng lão trả lời như vầy:
- Này các đại đức, chúng tôi có bơ, có dầu, có phần ăn ngon.
Các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka đã nói như vầy:
- Bạch chư đại đức, chúng tôi đã không được gì cả, chỉ là vật bình thường
theo khả năng gồm có cơm tấm và món thứ hai là cháo chua.
[595] Vào lúc bấy giờ, có một gia chủ là người có bữa ăn ngon thường
cúng dường đến hội chúng bữa ăn gồm bốn phần là bữa ăn thường lệ. Vị ấy cùng vợ
và các con thường hiện diện và phục vụ ở nhà ăn; họ dâng các vị này cơm, dâng
các vị kia canh, dâng các vị nọ dầu ăn, và dâng các vị khác nữa phần ăn ngon.
[596] Vào lúc bấy giờ, bữa ăn vào ngày hôm sau của vị gia chủ có bữa
ăn ngon đã được sắp xếp cho các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka. Hôm ấy, vị
gia chủ có bữa ăn ngon đã đi đến tu viện bởi một công việc cần làm gì đó. Vị ấy
đã đi đến đại đức Dabba Mallaputta, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Dabba
Mallaputta rồi ngồi xuống một bên. Đại đức Dabba Mallaputta bằng bài Pháp thoại
đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi vị gia chủ có bữa ăn
ngon đang ngồi một bên. Sau khi đã được đại đức Dabba Mallaputta chỉ dạy, thức
tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, vị gia chủ có bữa
ăn ngon đã nói với đại đức Dabba Mallaputta điều này:
- Bạch đại đức, bữa ăn vào ngày mai ở nhà chúng tôi được sắp xếp cho vị nào?
- Này gia chủ, bữa ăn vào ngày mai ở nhà gia chủ được sắp xếp cho các tỷ-kheo
nhóm Mettiya và Bhummajaka.
Khi ấy, vị gia chủ có bữa ăn ngon đã không được phấn khởi (nghĩ rằng): "Vì
sao các tỷ-kheo tồi tệ lại thọ thực ở nhà của chúng ta?" rồi đã đi về nhà và
dặn dò người tớ gái rằng:
- Hãy xếp đặt chỗ ngồi ở nhà kho cho các vị đến thọ thực vào ngày mai và dâng
cho họ cơm tấm và món thứ hai là cháo chua.
- Xin vâng, thưa chủ nhân. Người tớ gái ấy đã đáp lại vị gia chủ có bữa ăn
ngon.
Khi ấy, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka (nghĩ rằng): "Này các đại
đức, hôm qua bữa ăn của gia chủ có bữa ăn ngon đã được sắp xếp cho chúng ta. Vào
ngày mai, vị gia chủ có bữa ăn ngon cùng vợ và các con sẽ hiện diện và phục vụ
chúng ta; họ dâng các vị này cơm, dâng các vị kia canh, dâng các vị nọ dầu ăn,
và dâng các vị khác nữa phần ăn ngon." Do chính tâm vui mừng ấy, đêm ấy các
vị đã không ngủ được như ý. Rồi vào lúc sáng sớm, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và
Bhummajaka đã mặc y, cầm y bát, đi đến nhà của vị gia chủ có bữa ăn ngon. Cô tớ
gái ấy đã thấy các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka đang đi lại từ đàng xa,
thấy rồi đã xếp đặt chỗ ngồi ở nhà kho, và nói với các tỷ-kheo nhóm Mettiya và
Bhummajaka điều này:
- Bạch các ngài, xin thỉnh các ngài ngồi.
Khi ấy, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka khởi ý rằng: "Chắn hẳn đến
giờ này bữa ăn vẫn chưa hoàn tất nên chúng ta mới được cho ngồi ở nhà kho như
thế này!" Sau đó, cô tớ gái ấy đã trở lại với cơm tấm và món thứ hai là cháo
chua, (nói rằng):
- Bạch các ngài, xin thỉnh các ngài ăn.
- Này chị, chúng tôi là các vị thọ nhận bữa ăn thường lệ.
- Tôi biết các ngài là các vị thọ nhận bữa ăn thường lệ. Vả lại, chính ngày
hôm qua tôi đã được gia chủ đích thân bảo rằng: "Hãy xếp đặt chỗ ngồi ở nhà
kho cho các vị đến thọ thực vào ngày mai và dâng cho họ cơm tấm và món thứ hai
là cháo chua." Bạch các ngài, xin thỉnh các ngài ăn.
Khi ấy, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka (bàn bạc rằng): "Này các
đại đức, hôm qua vị gia chủ có bữa ăn ngon đã đi đến tu viện gặp Dabba
Mallaputta. Chắc chắn rằng chúng ta đã bị Dabba Mallaputta ly gián với vị gia
chủ." Chính vì tâm bực bội ấy khiến các vị đã không thọ thực được như ý. Rồi
sau bữa ăn, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka, từ chỗ thọ thực đi trở về
lại tu viện, đã bỏ y bát xuống, ngồi xếp chân ở trên y hai lớp (saṅghāti) ở bên
ngoài cổng ra vào của tu viện, im lặng, xấu hổ, rút vai lại, mặt cúi xuống, trầm
ngâm, không nói năng.
Khi ấy, tỷ-kheo ni Mettiyā đi đến gặp các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka,
đến rồi đã nói với các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka điều này:
- Tôi xin chào các ngài.
Được nói vậy, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka đã không đáp lại.
Đến lần thứ nhì, …(như trên)…
Đến lần thứ ba, tỷ-kheo ni Mettiyā đã nói với các tỷ-kheo nhóm Mettiya và
Bhummajaka điều này:
- Tôi xin chào các ngài.
Lần thứ ba, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka đã không đáp lại.
- Tôi đã làm các ngài phật lòng điều gì? Tại sao các ngài không nói chuyện
với tôi?
- Này cô ni, bởi vì cô vẫn dửng dưng trong lúc chúng tôi bị Dabba Mallaputta
làm tổn hại.
- Bạch các ngài, tôi làm được điều gì?
- Này cô ni, nếu cô chịu làm thì ngay trong ngày hôm nay đức Thế Tôn có thể
trục xuất đại đức Dabba Mallaputta.
- Bạch các ngài, tôi làm được điều gì? Tôi có thể làm điều gì?
- Này cô ni, cô hãy đi đến gặp đức Thế Tôn, đến rồi hãy hói với đức Thế Tôn
như vầy: "Bạch ngài, điều này là không đúng đắn, không hợp lý. Bạch ngài,
chính ở quốc độ có sự an toàn, không tai hoạ, không sầu khổ thì chính ở quốc độ
ấy có sự sợ hãi, có tai hoạ, và có sầu khổ; từ nơi nào gió lặng đi thì từ nơi ấy
có bão tố; con nghĩ rằng nước đã bùng cháy lên rồi; con đã bị ngài Dabba
Mallaputta làm ô uế."
- Bạch các ngài, xin vâng ạ.
Tỷ-kheo ni Mettiyā đã nghe theo các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka đi đến
gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng một bên. Khi đã
đứng một bên, tỷ-kheo ni Mettiyā đã bạch với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, điều này là không đúng đắn, không hợp lý. Bạch ngài, chính ở
quốc độ có sự an toàn, không tai hoạ, không sầu khổ thì chính ở quốc độ ấy có sự
sợ hãi, có tai hoạ, và có sầu khổ; từ nơi nào gió lặng đi thì từ nơi ấy có bão
tố; con nghĩ rằng nước đã bùng cháy lên rồi; con đã bị ngài Dabba Mallaputta làm
ô uế.
[597] Rồi đức Thế-tôn nhân lý do ấy, nhân sự việc ấy liền tập họp
chúng tỷ-kheo lại và đã hỏi đại đức Dabba Mallaputta rằng:
- Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đã hành động giống như điều tỷ-kheo ni
này vừa nói không?
- Bạch ngài, con như thế nào đức Thế-tôn biết rõ mà.
Lần thứ nhì, đức Thế-tôn đã hỏi đại đức Dabba Mallaputta rằng:
- Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đã hành động giống như điều tỷ-kheo ni
này vừa nói không?
- Bạch ngài, con như thế nào đức Thế-tôn biết rõ mà.
Lần thứ ba, đức Thế-tôn đã hỏi đại đức Dabba Mallaputta rằng:
- Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đã hành động giống như điều tỷ-kheo ni
này vừa nói không?
- Bạch ngài, con như thế nào đức Thế-tôn biết rõ mà.
- Này Dabba, giòng họ Dabba không phủ nhận như thế. Nếu ngươi có làm, hãy
nói: "Có làm;" nếu không làm, hãy nói: "Không làm."
- Bạch ngài, từ khi con được sanh ra, con không bao giờ thấy mình là kẻ tầm
cầu việc đôi lứa ngay cả trong lúc ngủ mơ, huống gì là tỉnh thức.
Sau đó, đức Thế-tôn đã bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, như vậy thì các ngươi hãy trục xuất tỷ-kheo ni Mettiyā và
tra hỏi các tỷ-kheo này.
Nói xong điều ấy, đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào trú xá.
Sau đó, các tỷ-kheo ấy đã trục xuất tỷ-kheo ni Mettiyā. Khi ấy, các tỷ-kheo
nhóm Mettiya và Bhummajaka đã nói điều này:
- Bạch chư đại đức, xin đừng trục xuất tỷ-kheo ni Mettiyā, cô ta không làm
tội lỗi gì.Vì chúng tôi nổi giận, không vừa ý, có ý định hạ nhục nên xúi giục cô
ta thôi.
- Này các đại đức, có phải các vị bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư
hỏng về giới không có nguyên cớ?
- Bạch chư đại đức, đúng vậy.
Các tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai
rằng:
- Vì sao các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka lại bôi nhọ đại đức Dabba
Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ?
Sau đó, các tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka bôi nhọ
Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ, có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và đã bảo các
tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy ban cho cách hành xử Luật bằng
sự ghi nhớ đến Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ. Và này các
tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Này các tỷ-kheo, vị Dabba Mallaputta ấy nên đi đến
hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi
ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:
- Bạch chư đại đức, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka này bôi nhọ tôi
với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Bạch chư đại đức, tôi là người thành
tựu đầy đủ về sự ghi nhớ giờ cầu xin hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi
nhớ.
Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba:
- Bạch chư đại đức, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka này bôi nhọ tôi
với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Bạch chư đại đức, tôi là người thành
tựu đầy đủ về sự ghi nhớ giờ cầu xin hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ
lần thứ ba.
[598] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ
năng lực:
- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỷ-kheo nhóm Mettiya và
Bhummajaka này bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có
nguyên cớ. Đại đức Dabba Mallaputta, là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, cầu
xin hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ. Nếu là thời điểm thích hợp cho
hội chúng, hội chúng nên ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến đại đức
Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỷ-kheo nhóm Mettiya và
Bhummajaka này bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có
nguyên cớ. Đại đức Dabba Mallaputta, là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, cầu
xin hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ. Hội chúng ban cho cách hành xử
Luật bằng sự ghi nhớ đến đại đức Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự
ghi nhớ. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ
đến đại đức Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, xin im lặng;
vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy
lắng nghe tôi. Các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka này bôi nhọ đại đức Dabba
Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Đại đức Dabba Mallaputta,
là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, cầu xin hội chúng cách hành xử Luật bằng
sự ghi nhớ. Hội chúng ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến đại đức
Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ. Đại đức nào thỏa thuận
việc ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến đại đức Dabba Mallaputta là
vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể
nói lên.
Cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đã được hội chúng ban đến đại đức Dabba
Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ. Sự việc được hội chúng thỏa
thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
[599] Này các tỷ-kheo, đây là năm sự ban cho đúng Pháp của cách hành
xử Luật bằng sự ghi nhớ: Vị tỷ-kheo được trong sạch, không có phạm tội, các vị
(khác) vu cáo vị ấy, vị ấy cầu xin, hội chúng ban cho cách hành xử Luật bằng sự
ghi nhớ đến vị ấy với sự hòa hợp đúng Pháp. Này các tỷ-kheo, đây là năm sự ban
cho đúng Pháp cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ.
3. Hành xử Luật khi không điên cuồng (Amūlhavinayo):
[600] Vào lúc bấy giờ, tỷ-kheo Gagga là vị bị điên và bị thay đổi tâm
tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực
hiện bởi vị ấy khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Các tỷ-kheo khiển trách
tỷ-kheo Gagga với tội đã thực hiện khi vị ấy bị điên và bị thay đổi tâm tính:
- Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?
Vị ấy nói như vầy:
- Này các đại đức, tôi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng
là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi chính tôi khi bị điên
và bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Tôi đã làm điều ấy khi bị
điên cuồng.
Dù được vị ấy nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng:
- Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?
Các tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai
rằng:
- Vì sao các tỷ-kheo lại khiển trách tỷ-kheo Gagga với tội đã được thực hiện
khi vị ấy bị điên và bị thay đổi tâm tính: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như
thế này không?" Vị ấy nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi bị điên, bị
thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã
được thực hiện bởi chính tôi khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ
được điều ấy. Tôi đã làm điều ấy khi bị điên cuồng." Dù được vị ấy nói như
vậy, các vị vẫn khiển trách rằng: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này
không?"?
Sau đó, các tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo …(như trên)…, có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
…(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và đã bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy ban cho cách hành xử Luật khi
không điên cuồng đến tỷ-kheo Gagga khi không bị điên cuồng. Và này các tỷ-kheo,
nên ban cho như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Gagga ấy nên đi đến hội chúng, đắp
thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm,
chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:
- Bạch chư đại đức, tôi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng
là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi chính tôi khi bị điên
và bị thay đổi tâm tính. Các tỷ-kheo đã khiển trách tôi với tội đã được thực
hiện khi bị điên và bị thay đổi tâm tính: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như
thế này không?" Tôi nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi bị điên, bị thay
đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được
thực hiện bởi chính tôi khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được
điều ấy. Tôi đã làm điều ấy khi bị điên cuồng." Dù được vị ấy nói như vậy,
các vị vẫn khiển trách rằng: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?"
Bạch chư đại đức, giờ không điên cuồng tôi cầu xin hội chúng cách hành xử Luật
khi không điên cuồng.
Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba:
Bạch chư đại đức, tôi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là
sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi chính tôi khi bị điên và
bị thay đổi tâm tính. Các tỷ-kheo đã khiển trách tôi với tội đã được thực hiện
khi bị điên và bị thay đổi tâm tính: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế
này không?" Tôi nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi bị điên, bị thay đổi
tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực
hiện bởi chính tôi khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều
ấy. Tôi đã làm điều ấy khi bị điên cuồng." Dù được vị ấy nói như vậy, các vị
vẫn khiển trách rằng: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?"
Bạch chư đại đức, giờ không điên cuồng tôi cầu xin hội chúng cách hành xử Luật
khi không điên cuồng lần thứ ba.
[601] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ
năng lực:
- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Gagga này bị điên,
bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động
đã được thực hiện bởi chính vị ấy khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Các
tỷ-kheo đã khiển trách tỷ-kheo Gagga với tội đã được thực hiện khi bị điên và bị
thay đổi tâm tính: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?" Vị
ấy nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều
việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi chính
tôi khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Tôi đã làm
điều ấy khi bị điên cuồng." Dù được vị ấy nói như vậy, các vị vẫn khiển
trách rằng: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?" Giờ không
điên cuồng, vị ấy cầu xin hội chúng cách hành xử Luật khi không điên cuồng. Nếu
là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho cách hành xử Luật
khi không điên cuồng đến tỷ-kheo Gagga khi không bị điên cuồng. Đây là lời đề
nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Gagga này bị điên, bị
thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã
được thực hiện bởi chính vị ấy khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Các tỷ-kheo
đã khiển trách tỷ-kheo Gagga với tội đã được thực hiện khi bị điên và bị thay
đổi tâm tính: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?" Vị ấy
nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc
không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi chính tôi
khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Tôi đã làm điều
ấy khi bị điên cuồng." Dù được vị ấy nói như vậy, các vị vẫn khiển trách
rằng: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?" Giờ không điên
cuồng, vị ấy cầu xin hội chúng cách hành xử Luật khi không điên cuồng. Hội chúng
ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến tỷ-kheo Gagga khi không bị
điên cuồng. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên
cuồng đến tỷ-kheo Gagga khi không bị điên cuồng, xin im lặng; vị nào không thỏa
thuận, có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Cách hành xử Luật khi không điên cuồng đã được hội chúng ban đến tỷ-kheo
Gagga khi không bị điên cuồng. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng,
tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
[602] Này các tỷ-kheo, đây là ba sự ban cho không đúng Pháp của cách
hành xử Luật khi không điên cuồng. Thế nào là ba sự ban cho không đúng Pháp của
cách hành xử Luật khi không điên cuồng?
Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này là vị tỷ-kheo phạm tội. Hội chúng hoặc
nhiều vị hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Đại đức có nhớ đã vi phạm
tội như thế này không?" Vị ấy dầu có nhớ, vẫn nói như vầy: " Bạch chư đại
đức, tôi không nhớ là đã phạm tội như thế." Hội chúng ban cho cách hành xử
Luật khi không điên cuồng đến vị ấy. Việc ban cho cách hành xử Luật khi không
điên cuồng là không đúng Pháp.
[603] Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này là vị tỷ-kheo phạm tội.
Hội chúng hoặc nhiều vị hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Đại đức có
nhớ đã vi phạm tội như thế này không?" Vị ấy dầu có nhớ, vẫn nói như vầy: "Bạch
chư đại đức, tôi nhớ như là từ giấc mơ vậy." Hội chúng ban cho cách hành xử
Luật khi không điên cuồng đến vị ấy. Việc ban cho cách hành xử Luật khi không
điên cuồng là không đúng Pháp.
[604] Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này là vị tỷ-kheo phạm tội.
Hội chúng hoặc nhiều vị hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Đại đức có
nhớ đã vi phạm tội như thế này không?" Vị ấy, là vị không bị điên, (giả vờ)
hành động trên cơ sở bị điên (nói rằng): "Tôi làm như thế. Các vị cũng làm
như thế. Đối với tôi, điều ấy là đúng đắn. Điều ấy cũng đúng đắn đối với các vị."
Hội chúng ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị ấy. Việc ban cho
cách hành xử Luật khi không điên cuồng là không đúng Pháp.
Đây là ba sự ban cho không đúng Pháp của cách hành xử Luật khi không điên
cuồng.
[605] Thế nào là ba sự ban cho đúng Pháp của cách hành xử Luật khi
không điên cuồng?
Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này là vị tỷ-kheo bị điên, bị thay đổi tâm
tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực
hiện bởi vị ấy khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Hội chúng hoặc nhiều vị hoặc
một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế
này không?" Vị ấy không nhớ được nên nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi
không nhớ được là đã vi phạm tội như thế." Hội chúng ban cho cách hành xử
Luật khi không điên cuồng đến vị ấy. Việc ban cho cách hành xử Luật khi không
điên cuồng là đúng Pháp.
[606] Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này là vị tỷ-kheo bị điên, bị
thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã
được thực hiện bởi vị ấy khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Hội chúng hoặc
nhiều vị hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Đại đức có nhớ đã vi phạm
tội như thế này không?" Vị ấy không nhớ được nên nói như vầy: "Bạch chư
đại đức, tôi nhớ như là từ giấc mơ vậy." Hội chúng ban cho cách hành xử Luật
khi không điên cuồng đến vị ấy. Việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên
cuồng là đúng Pháp.
[607] Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này là vị tỷ-kheo bị điên, bị
thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã
được thực hiện bởi vị ấy khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Hội chúng hoặc
nhiều vị hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Đại đức có nhớ đã vi phạm
tội như thế này không?" Vị ấy là vị bị điên, hành động trên cơ sở bị điên
(nói rằng): "Tôi làm như thế. Các vị cũng làm như thế. Đối với tôi, điều ấy
là đúng đắn. Điều ấy cũng đúng đắn đối với các vị." Hội chúng ban cho cách
hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị ấy. Việc ban cho cách hành xử Luật khi
không điên cuồng là đúng Pháp.
4. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận
(Patiññātakaranaṃ):
[608] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư thực thi các hành sự:
khiển trách, chỉ dạy, xua đuổi, hòa giải, và án treo đến các tỷ-kheo chưa chịu
thừa nhận. Các tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- Vì sao các tỷ-kheo nhóm Lục Sư lại thực thi các hành sự: khiển trách, chỉ
dạy, xua đuổi, hòa giải, và án treo đến các tỷ-kheo chưa chịu thừa nhận?
Sau đó, các tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, nghe nói …(như trên)…, có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
…(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và đã bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, hành sự khiển trách, chỉ dạy, xua đuổi, hòa giải, hoặc án
treo không nên thực thi đến các tỷ-kheo chưa chịu thừa nhận. Vị nào thực thi thì
phạm tội tác ác (dukkata).
[609] Này các tỷ-kheo, việc phán xử theo tội đã được thừa nhận như thế
này gọi là không đúng Pháp, như thế này gọi là đúng Pháp.
Này các tỷ-kheo, thế nào là việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không
đúng Pháp?
Vị tỷ-kheo phạm tội pārājika (Bất cộng trụ). Hội chúng hoặc nhiều vị
hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Có phải đại đức đã vi phạm tội
pārājika (Bất cộng trụ)?" Vị ấy nói như vầy: "Bạch chư đại đức,
tôi không phạm tội pārājika, tôi đã phạm tội Saṅghādisesa (Tăng tàng)." Hội
chúng hành sự cho vị ấy với tội Saṅghādisesa. Việc phán xử theo tội đã
được thừa nhận là không đúng Pháp.
Vị tỷ-kheo phạm tội pārājika (Bất cộng trụ). Hội chúng hoặc nhiều vị
hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Có phải đại đức đã vi phạm tội
pārājika?" Vị ấy nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi không phạm
tội pārājika, tôi đã phạm trọng tội (thullaccaya). Hội chúng hành sự cho vị
ấy với trọng tội. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.
Vị tỷ-kheo phạm tội pārājika (Bất cộng trụ). Hội chúng hoặc nhiều vị
hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Có phải đại đức đã vi phạm tội
pārājika?" Vị ấy nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi không phạm
tội pārājika, tôi đã phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Hội chúng hành sự cho
vị ấy với tội ưng đối trị. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng
Pháp.
Vị tỷ-kheo phạm tội pārājika (Bất cộng trụ). Hội chúng hoặc nhiều vị
hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Có phải đại đức đã vi phạm tội
pārājika?" Vị ấy nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi không phạm
tội pārājika, tôi đã phạm tội ưng phát lộ (pātidesanīya). Hội chúng hành sự
cho vị ấy với tội ưng phát lộ. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không
đúng Pháp.
Vị tỷ-kheo phạm tội pārājika (Bất cộng trụ). Hội chúng hoặc nhiều vị
hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Có phải đại đức đã vi phạm tội
pārājika?" Vị ấy nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi không phạm
tội pārājika, tôi đã phạm tội tác ác (dukkata). Hội chúng hành sự cho vị ấy
với tội tác ác. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.
Vị tỷ-kheo phạm tội pārājika (Bất cộng trụ). Hội chúng hoặc nhiều vị
hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Có phải đại đức đã vi phạm tội
pārājika?" Vị ấy nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi không phạm
tội pārājika, tôi đã phạm tội ác khẩu (dubbhāsita). Hội chúng hành sự cho vị
ấy với tội ác khẩu. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.
Vị tỷ-kheo phạm tội Saṅghādisesa …(như trên)… trọng tội (thullaccaya)
…(như trên)… tội ưng đối trị (pācittiya) …(như trên)… tội ưng phát lộ
(pātidesanīya) …(như trên)… tội tác ác (dukkata) …(như trên)… tội ác khẩu
(dubbhāsita). Hội chúng hoặc nhiều vị hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy:
"Có phải đại đức đã vi phạm tội ác khẩu (dubbhāsita)?" Vị ấy nói
như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi không phạm tội ác khẩu (dubbhāsita), tôi đã
phạm tội pārājika." Hội chúng hành sự cho vị ấy tội pārājika. Việc phán xử
theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.
Vị tỷ-kheo phạm tội ác khẩu (dubbhāsita). Hội chúng hoặc nhiều vị hoặc một vị
khiển trách vị ấy về điều ấy: "Có phải đại đức đã vi phạm tội ác khẩu
(dubbhāsita)?" Vị ấy nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi không
phạm tội ác khẩu (dubbhāsita), tôi đã phạm tội Saṅghādisesa…(như trên)… trọng
tội (thullaccaya) …(như trên)… tội ưng đối trị (pācittiya) …(như trên)… tội ưng
phát lộ (pātidesanīya) …(như trên)… tội tác ác (dukkata)." Hội chúng hành
sự cho vị ấy tội tác ác (dukkata). Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là
không đúng Pháp.
Này các tỷ-kheo, việc phán xử theo tội đã được thừa nhận như thế gọi là không
đúng Pháp.
[610] Này các tỷ-kheo, thế nào là việc phán xử theo tội đã được thừa
nhận là đúng Pháp?
Vị tỷ-kheo phạm tội pārājika (Bất cộng trụ). Hội chúng hoặc nhiều vị
hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Có phải đại đức đã vi phạm tội
pārājika?" Vị ấy nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi đã phạm tội
pārājika." Hội chúng hành sự cho vị ấy tội pārājika. Việc phán xử theo tội
đã được thừa nhận là đúng Pháp.
Vị tỷ-kheo phạm tội Saṅghādisesa …(như trên)… trọng tội (thullaccaya)
…(như trên)… tội ưng đối trị (pācittiya) …(như trên)… tội ưng phát lộ
(pātidesanīya) …(như trên)… tội tác ác (dukkata) …(như trên)… tội ác khẩu
(dubbhāsita). Hội chúng hoặc nhiều vị hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy:
"Có phải đại đức đã vi phạm tội ác khẩu (dubbhāsita)?" Vị ấy nói
như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi đã phạm tội ác khẩu (dubbhāsita)." Hội
chúng hành sự cho vị ấy tội ác khẩu (dubbhāsita). Việc phán xử theo tội đã được
thừa nhận là đúng Pháp.
Này các tỷ-kheo, việc phán xử theo tội đã được thừa nhận như thế gọi là đúng
Pháp.
5. Thuận theo số đông (Yebhuyyasikā):
[611] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo sinh hoạt trong hội chúng đã gây ra
các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và làm tổn thương lẫn nhau bằng các
vũ khí miệng lưỡi. Họ đã không thể giải quyết sự tranh tụng. Các vị đã trình sự
việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép giải quyết sự tranh tụng như thế thuận theo số
đông. Vị tỷ-kheo hội đủ năm điều kiện nên được chỉ định làm vị phân phát thẻ
(salākaggāhāpako): là vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích; là vị không thể
bị chi phối bởi sự sân hận; là vị không thể bị chi phối bởi sự si mê; là vị
không thể bị chi phối bởi sự sợ hãi; và vị ấy biết (thẻ) đã được nhận hay không
được nhận.
Và này các tỷ-kheo, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỷ-kheo cần được yêu
cầu; sau khi đã yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh
nghiệm, đủ năng lực:
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp
cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) là vị phân phát
thẻ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định tỷ-kheo
tên (như vầy) là vị phân phát thẻ. Đại đức nào thỏa thuận với việc chỉ định
tỷ-kheo tên (như vầy) là vị phân phát thẻ, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận,
có thể nói lên.
Tỷ-kheo tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị phân phát thẻ. Sự việc
được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
[612] Này các tỷ-kheo, đây là mười sự phân phát thẻ không đúng Pháp,
mười (sự phân phát thẻ) đúng Pháp.
Thế nào là mười sự phân phát thẻ không đúng Pháp?
Khi sự tranh tụng là việc nhỏ nhặt, chưa đến mức phải xử lý, không được nhớ
lại hoặc làm cho nhớ lại, vị phân phát thẻ biết rằng: "Các vị nói sai Pháp
nhiều hơn," (vị ấy nghĩ rằng): "Có lẽ các vị nói sai Pháp nhiều hơn,"
vị ấy biết rằng: "Hội chúng sẽ bị chia rẽ," (vị ấy nghĩ rằng): "Có lẽ
hội chúng sẽ bị chia rẽ," các vị nhận lãnh thẻ không được hợp lệ, các vị có
sự chia phe nhóm khi nhận lãnh thẻ, các vị nhận lãnh không theo quan điểm (của
bản thân).
Đây là mười sự phân phát thẻ không đúng Pháp.
[613] Thế nào là mười sự phân phát thẻ đúng Pháp?
Khi sự tranh tụng không phải là việc nhỏ nhặt, đã đến mức phải xử lý, được
nhớ lại hoặc được làm cho nhớ lại, vị phân phát thẻ biết rằng: "Các vị nói
đúngPháp nhiều hơn," (vị ấy nghĩ rằng): "Có lẽ các vị nói đúng Pháp nhiều
hơn," vị ấy biết rằng: "Hội chúng sẽ không bị chia rẽ," (vị ấy nghĩ
rằng): "Có lẽ hội chúng sẽ không bị chia rẽ," các vị nhận lãnh thẻ một
cách hợp lệ, các vị có sự hòa hợp khi nhận lãnh thẻ, các vị nhận lãnh theo quan
điểm (của bản thân).
Đây là mười sự phân phát thẻ đúng Pháp.
6. Theo tội của vị ấy (Tassapāpiyasikā):
[614] Vào lúc bấy giờ, tỷ-kheo Upavāla trong khi được tra hỏi các tội
trước hội chúng đã phủ nhận rồi lại thừa nhận, đã thừa nhận rồi lại phủ nhận, đã
tránh né tội ấy bằng một tội khác, đã nói điều dối trá có chủ ý. Các vị tỷ-kheo
ít ham muốn …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỷ-kheo Upavāla trong khi được tra hỏi các tội trước hội chúng đã
phủ nhận rồi lại thừa nhận, đã thừa nhận rồi lại phủ nhận, đã tránh né tội ấy
bằng một tội khác, đã nói điều dối trá có chủ ý?
Rồi các tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, nghe nói …(như trên)…, có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các
tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy thực thi hành sự theo tội của vị
ấy đến tỷ-kheo Upavāla. Và này các tỷ-kheo, nên thực thi như vầy: Trước hết,
tỷ-kheo Upavāla cần được quở trách; sau khi quở trách cần được nhắc nhở; sau
khi nhắc nhở rồi cần được xác định tội; sau khi được xác định tội rồi, hội chúng
cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Upavāla này trong
khi được tra hỏi các tội trước hội chúng đã phủ nhận rồi lại thừa nhận, đã thừa
nhận rồi lại phủ nhận, đã tránh né tội ấy bằng một tội khác, đã nói điều dối trá
có chủ ý. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thực thi hành
sự theo tội của vị ấy đến tỷ-kheo Upavāla. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Upavāla này trong
khi được tra hỏi các tội trước hội chúng đã phủ nhận rồi lại thừa nhận, đã thừa
nhận rồi lại phủ nhận, đã tránh né tội ấy bằng một tội khác, đã nói điều dối trá
có chủ ý. Hội chúng thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến tỷ-kheo Upavāla.
Đại đức nào thỏa thuận với việc thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến tỷ-kheo
Upavāla, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Hành sự theo tội của vị ấy đã được hội chúng thực thi đến tỷ-kheo Upavāla.
Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như
vậy.
[615] Này các tỷ-kheo, đây là năm sự thực thi đúng Pháp của hành sự
theo tội của vị ấy: Vị ấy không trong sạch, không có hổ thẹn, có sự khiển trách,
hội chúng thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến vị ấy đúng Pháp, có sự hòa
hợp.
Này các tỷ-kheo, đây là năm sự thực thi đúng Pháp của hành sự theo tội của vị
ấy.
[616] Này các tỷ-kheo, một hành sự theo tội của vị ấy là hành sự không
đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều
kiện: được thực thi thiếu sự hiện diện, được thực thi thiếu sự tra hỏi, được
thực thi với sự không thừa nhận (appatiññāya kataṃ) Này các tỷ-kheo, một hành
sự xua đuổi hội đủ ba điều kiện này là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không
đúng Luật, khó được hoàn tất. …(như trên)… Này các tỷ-kheo, một hành sự theo tội
của vị ấy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn
tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: được thực thi khi chưa xác định tội, được
thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm.
Này các tỷ-kheo, một hành sự xua đuổi hội đủ ba điều kiện này là hành sự
không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[617] Này các tỷ-kheo, một hành sự theo tội của vị ấy là hành sự đúng
Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện: được
thực thi với sự hiện diện, được thực thi từ sự tra hỏi, được thực thi với sự
thừa nhận (patiññāya kataṃ). Này các tỷ-kheo, một hành sự xua đuổi hội đủ ba
điều kiện này là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
…(như trên)… Này các tỷ-kheo, một hành sự theo tội của vị ấy là hành sự đúng
Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác
nữa: được thực thi sau khi xác định tội, được thực thi đúng theo Pháp, được thực
thi bởi hội chúng hòa hợp.
Này các tỷ-kheo, một hành sự xua đuổi hội đủ ba điều kiện này là hành sự đúng
Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[618] Này các tỷ-kheo, nếu mong muốn hội chúng nên thực thi hành sự
theo tội của vị ấy đối với vị tỷ-kheo hội đủ ba đặc tính: là vị thường gây nên
sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và sự tranh tụng trong hội
chúng; là vị ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, thiếu khả năng; là vị
năng thân cận giới tục gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người thế tục.
Này các tỷ-kheo, nếu mong muốn hội chúng nên thực thi hành sự theo tội của vị ấy
đối với vị tỷ-kheo hội đủ ba đặc tính này.
[619] Này các tỷ-kheo, nếu mong muốn hội chúng nên thực thi hành sự
theo tội của vị ấy đối với vị tỷ-kheo hội đủ ba đặc tính khác nữa: là vị không
thành tựu giới thuộc tăng thượng giới, là vị không thành tựu hạnh thuộc tăng
thượng hạnh, là vị không thành tựu tri kiến thuộc tăng thượng tri kiến. Này các
tỷ-kheo, …(như trên)… ba đặc tính này.
[620] Này các tỷ-kheo, …(như trên)… ba đặc tính khác nữa: là vị chê
bai Phật, là vị chê bai Pháp, là vị chê bai Tăng. Này các tỷ-kheo, nếu mong muốn
hội chúng nên thực thi hành sự theo tội của vị ấy đối với vị tỷ-kheo hội đủ ba
đặc tính này.
[621] Này các tỷ-kheo, nếu mong muốn hội chúng nên thực thi hành sự
theo tội của vị ấy đối với ba hạng tỷ-kheo: hạng thường gây nên sự xung đột, cãi
cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và sự tranh tụng trong hội chúng; hạng ngu
si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, thiếu khả năng; hạng năng thân cận giới
tục gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người thế tục. Này các tỷ-kheo,
nếu mong muốn hội chúng nên thực thi hành sự theo tội của vị ấy đối với ba hạng
tỷ-kheo này.
[622] Này các tỷ-kheo, nếu mong muốn hội chúng nên thực thi hành sự
theo tội của vị ấy đối với ba hạng tỷ-kheo khác nữa: hạng không thành tựu giới
thuộc tăng thượng giới, hạng không thành tựu hạnh thuộc tăng thượng hạnh, hạng
không thành tựu tri kiến thuộc tăng thượng tri kiến. Này các tỷ-kheo, …(như
trên)… ba hạng tỷ-kheo này.
[623] Này các tỷ-kheo, …(như trên)… ba hạng tỷ-kheo khác nữa: hạng chê
bai Phật, hạng chê bai Pháp, hạng chê bai Tăng. Này các tỷ-kheo, nếu mong muốn
hội chúng nên thực thi hành sự theo tội của vị ấy đối với ba hạng tỷ-kheo này.
[624] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo thực thi hành sự theo tội của vị ấy
nên làm phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm
chỉnh ấy là: không nên ban phép tu lên bậc trên; không nên ban cho phép nương
nhờ; không nên để sa-di phục vụ; không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy
tỷ-kheo ni; không nên giảng dạy tỷ-kheo ni dầu đã được chỉ định; …(như trên)…;
không nên tạo bè phái với các tỷ-kheo.
Sau đó, hội chúng đã thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến tỷ-kheo
Upavāla.
7. Cách dùng cỏ che lấp (Tinavatthārakaṃ):
[625] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo trong khi sinh hoạt đã nảy sinh các
sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và có nhiều việc không xứng là sa-môn
bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Khi ấy, điều này đã sanh khởi đến
các tỷ-kheo ấy: "Chúng ta trong khi sinh hoạt đã nảy sinh các sự xung đột,
gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và
hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta lại gây ra cho nhau bằng các tội này,
như thế thì sự tranh tụng này có thể đưa đến lủng củng nội bộ, bất hòa nội bộ,
và chia rẽ. Vậy chúng ta nên thực hành như thế nào đây?" Các vị đã trình sự
việc ấy lên đức Thế Tôn.
[626] Này các tỷ-kheo, trong trường hợp các tỷ-kheo trong khi sinh
hoạt đã nảy sinh các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và nhiều việc không
xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Ở đây, nếu các
tỷ-kheo (nghĩ) như vầy: "Chúng ta trong khi sinh hoạt đã nảy sinh các sự xung
đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và có nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời
nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta lại gây ra cho nhau bằng các
tội này, như thế thì sự tranh tụng này có thể đưa đến lủng củng nội bộ, bất hòa
nội bộ, và chia rẽ. Vậy chúng ta nên thực hành như thế nào đây?" Này các
tỷ-kheo, ta cho phép giải quyết sự tranh tụng có hình thức như thế bằng cách
dùng cỏ che lấp.
[627] Và này các tỷ-kheo, nên giải quyết như vầy: Tất cả nên tụ họp
lại một chỗ; sau khi tụ họp lại, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có
kinh nghiệm, đủ năng lực:
- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh
hoạt đã nảy sinh các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và có nhiều việc
không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta
lại gây ra cho nhau bằng các tội này, như thế thì sự tranh tụng này có thể đưa
đến lủng củng nội bộ, bất hòa nội bộ, và chia rẽ. Nếu là thời điểm thích hợp cho
hội chúng, hội chúng nên giải quyết sự tranh tụng này bằng cách dùng cỏ che lấp,
ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng [*] và ngoại trừ trường hợp có
liên quan đến cư sĩ.
[*] Trường hợp tỷ-kheo phạm tội Pārājika và Saṅghādisesa (tức là
Bất cộng trụ và Tăng tàng).
Một vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực của các tỷ-kheo thuộc về cùng một
phe nên thông báo đến phe của mình rằng:
- Xin chư đại đức hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt đã nảy sinh
các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và có nhiều việc không xứng là
sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta lại gây ra cho
nhau bằng các tội này, như thế thì sự tranh tụng này có thể đưa đến lủng củng
nội bộ, bất hòa nội bộ, và chia rẽ. Nếu là thời điểm thích hợp cho chư đại đức,
tôi sẽ sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp tội của chư đại đức và tội của tôi
trước hội chúng chính vì sự lợi ích của chư đại đức và vì lợi ích của tôi, ngoại
trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư
sĩ.
[628] Khi ấy, một vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực của các
tỷ-kheo thuộc về phe kia nên thông báo đến phe của mình rằng:
- Xin chư đại đức hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt đã nảy sinh
các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và có nhiều việc không xứng là
sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta lại gây ra cho
nhau bằng các tội này, như thế thì sự tranh tụng này có thể đưa đến lủng củng
nội bộ, bất hòa nội bộ, và chia rẽ. Nếu là thời điểm thích hợp cho chư đại đức,
tôi sẽ sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp tội của chư đại đức và tội của tôi
trước hội chúng chính vì sự lợi ích của chư đại đức và vì lợi ích của tôi, ngoại
trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư
sĩ.
[629] Sau đó, hội chúng nên được thông báo bởi một vị tỷ-kheo có kinh
nghiệm, đủ năng lực của các tỷ-kheo thuộc về một phe rằng:
- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh
hoạt đã nảy sinh các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và có nhiều việc
không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta
lại gây ra cho nhau bằng các tội này, như thế thì sự tranh tụng này có thể đưa
đến lủng củng nội bộ, bất hòa nội bộ, và chia rẽ. Nếu là thời điểm thích hợp cho
hội chúng, tôi xin sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp tội của các đại đức ấy và
tội của tôi trước hội chúng chính vì sự lợi ích của các đại đức ấy và vì lợi ích
của tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có
liên quan đến cư sĩ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt
đã nảy sinh các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và có nhiều việc không
xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta lại gây
ra cho nhau bằng các tội này, như thế thì sự tranh tụng này có thể đưa đến lủng
củng nội bộ, bất hòa nội bộ, và chia rẽ. Chính vì sự lợi ích của các đại đức ấy
và vì lợi ích của tôi, tôi xin sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp tội của các đại
đức ấy và tội của tôi trước hội chúng, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng
và ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Đại đức nào thỏa thuận việc sám
hối bằng cách dùng cỏ che lấp các tội ấy của chúng tôi trước hội chúng, ngoại
trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư
sĩ, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.
Các tội ấy của chúng tôi đã được sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp trước hội
chúng, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có liên
quan đến cư sĩ. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự
việc này là như vậy.
[630] Sau đó, hội chúng nên được thông báo bởi một vị tỷ-kheo có kinh
nghiệm, đủ năng lực của các tỷ-kheo thuộc về phe kia rằng:
- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh
hoạt đã nảy sinh các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và có nhiều việc
không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta
lại gây ra cho nhau bằng các tội này, như thế thì sự tranh tụng này có thể đưa
đến lủng củng nội bộ, bất hòa nội bộ, và chia rẽ. Nếu là thời điểm thích hợp cho
hội chúng, tôi xin sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp tội của các đại đức ấy và
tội của tôi trước hội chúng chính vì sự lợi ích của các đại đức ấy và vì lợi ích
của tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có
liên quan đến cư sĩ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt
đã nảy sinh các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và có nhiều việc không
xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta lại gây
ra cho nhau bằng các tội này, như thế thì sự tranh tụng này có thể đưa đến lủng
củng nội bộ, bất hòa nội bộ, và chia rẽ. Chính vì sự lợi ích của các đại đức ấy
và vì lợi ích của tôi, tôi xin sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp tội của các đại
đức ấy và tội của tôi trước hội chúng, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng
và ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Đại đức nào thỏa thuận việc sám
hối bằng cách dùng cỏ che lấp các tội ấy của chúng tôi trước hội chúng, ngoại
trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư
sĩ, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.
Các tội ấy của chúng tôi đã được sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp trước hội
chúng, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có liên
quan đến cư sĩ. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự
việc này là như vậy.
[631] Và này các tỷ-kheo, như thế các tỷ-kheo ấy đã được thoát khỏi
các tội ấy, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có
liên quan đến cư sĩ, ngoại trừ (các vị) có quan điểm khác về hành sự này, ngoại
trừ các vị không hiện diện ở đó.
8. Sự tranh tụng:
[632] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo tranh cãi với các tỷ-kheo ni, các
tỷ-kheo ni cũng tranh cãi với các tỷ-kheo. Tỷ-kheo Channa sau khi theo phe các
tỷ-kheo ni cũng tranh cãi với các tỷ-kheo và được xem là thuộc phe các tỷ-kheo
ni. Các tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai
rằng:
- Vì sao tỷ-kheo Channa sau khi theo phe các tỷ-kheo ni lại tranh cãi với các
tỷ-kheo và được xem là thuộc phe các tỷ-kheo ni?
Rồi các tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, nghe nói …(như trên)…, có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi đã bảo các
tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, đây là bốn sự tranh tụng: Sự tranh tụng liên quan đến
tranh cãi, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên quan đến
tội, và sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.
[633] Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi là thế nào? Này các
tỷ-kheo, trong trường hợp này, các tỷ-kheo tranh cãi rằng: "Đây là Pháp,"
"Đây không phải là Pháp," "Đây là Luật," "Đây không phải là
Luật," "Điều ấy đã được đấng Thiện Thệ thuyết giảng và nói đến," "Điều
ấy đã không được đấng Thiện Thệ thuyết giảng và nói đến," "Điều ấy đã
được đấng Thiện Thệ thực hiện," "Điều ấy đã không được đấng Thiện Thệ
thực hiện," "Điều ấy đã được đấng Thiện Thệ quy định," "Điều ấy đã
không được đấng Thiện Thệ quy định," "Điều ấy là phạm tội," "Điều
ấy là không phạm tội," "Điều ấy là tội nhẹ," "Điều ấy là tội nặng,"
"Tội sám hối được," "Tội không sám hội được," "Tội xấu xa,"
hoặc "Tội không xấu xa." Ở đây, việc nào là xung đột, gây gỗ, tranh luận,
tranh cãi, nhiều quan điểm, khác quan điểm, đặt tên cho một sự việc mới được
thành tựu đưa đến gây gỗ (vipaccatāya vohāro medhagam-), việc ấy được gọi là sự
tranh tụng liên quan đến tranh cãi.
[634] Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách là thế nào? Này
các tỷ-kheo, trong trường hợp này, các tỷ-kheo khiển trách một vị tỷ-kheo với sự
hư hỏng vì giới, hoặc với sự hư hỏng về sở hành, hoặc với sự hư hỏng về tri
kiến, hoặc với sự hư hỏng về nuôi mạng. Ở đây, việc nào là sự khiển trách, sự
xoi mói, sự buộc tội, sự chỉ trích, sự moi móc (amusampavaṅkatā), sự xúi giục
(abbhussahanatā), sự khích động (anubalappadānam-), việc ấy được gọi là sự tranh
tụng liên quan đến khiển trách.
[635] Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến tội là thế nào? Năm nhóm tội
[*] là sự tranh tụng liên quan đến tội, và bảy nhóm tội [*] là sự
tranh tụng liên quan đến tội; việc ấy được gọi là sự tranh tụng liên quan đến
tội.
[*] Năm nhóm tội là: Pārājika, Saṅghādisesa, Nissaggiya pācittiya,
Pācittiya, và Dukkata (tức là Bất cộng trụ, Tăng tàng, Ưng xả đối trị, Ưng
đối trị, và Tác ác. Thêm vào Thullaccaya và Dubbhāsita là bảy (tức là Trọng
tội và Ác khẩu).
[636] Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ là thế nào? Việc gì
của hội chúng cần phải hoàn thành, cần phải thực thi, là hành sự với sự thỏa
thuận (apalokanakammam-), hành sự với lời thông báo, hành sự với lời thông báo
đến lần thứ hai, hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư. Việc ấy được gọi là
sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.
[637] Nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi là gì? Có
sáu nguyên nhân tranh cãi là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tranh
cãi. Có ba nguyên nhân không tốt đẹp là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan
đến tranh cãi và ba nguyên nhân tốt đẹp là nguyên nhân của sự tranh tụng liên
quan đến tranh cãi.
Sáu nguyên nhân tranh cãi nào là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến
tranh cãi?
Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này vị tỷ-kheo trở nên giận dữ có sự hằn
học. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo nào trở nên giận dữ, có sự hằn học, vị ấy sống
không cung kính, không phục tùng bậc Đạo Sư; vị ấy sống không cung kính, không
phục tùng Pháp; vị ấy sống không cung kính, không phục tùng hội chúng (Tăng); vị
ấy có sự thực hành không trọn vẹn các học giới. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo nào
sống không cung kính, không phục tùng bậc Đạo Sư, …(như trên)… Pháp, …(như
trên)… hội chúng (Tăng)…, có sự thực hành không trọn vẹn các học giới, vị ấy gây
nên sự tranh cãi trong hội chúng là sự tranh cãi không đem lại lợi ích cho nhiều
người không đem lại an lạc cho nhiều người, không đem lại sự tấn hóa cho nhiều
người, không đem lại lợi ích mà đem lại khổ đau cho chư thiên và nhân loại. Này
các tỷ-kheo, nếu các ngươi nhận thức được nguyên nhân tranh cãi có hình thức như
thế một cách chủ quan và khách quan, trong trường hợp này, này các tỷ-kheo, các
ngươi nên nỗ lực đạt đến sự chấm dứt chính cái nguyên nhân tranh cãi xấu xa ấy.
Này các tỷ-kheo, nếu các ngươi không nhận thức được nguyên nhân tranh cãi có
hình thức như thế một cách chủ quan hoặc khách quan, trong trường hợp này, này
các tỷ-kheo, các ngươi nên thực hành để không đem lại sự hỗ trợ trong tương lai
cho chính cái nguyên nhân tranh cãi xấu xa ấy. Như thế nguyên nhân tranh cãi xấu
xa ấy có được sự chấm dứt. Như thế nguyên nhân tranh cãi xấu xa ấy không có được
sự hỗ trợ trong tương lai.
[638] Này các tỷ-kheo, còn có điều khác nữa: Có vị tỷ-kheo trở nên đạo
đức giả và dối trá, …(như trên)…, trở nên đố kỵ và bỏn xẻn, trở nên mưu mẹo và
xảo trá, trở nên ác dục và tà kiến, trở nên chấp thủ một cách lộ liễu, ương
ngạnh, khó sửa đổi. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo nào trở nên chấp thủ một cách lộ
liễu, ương ngạnh, khó sửa đổi, vị ấy sống không cung kính, không phục tùng bậc
Đạo Sư; vị ấy sống không cung kính, không phục tùng Pháp; vị ấy sống không cung
kính, không phục tùng hội chúng (Tăng); vị ấy có sự thực hành không trọn vẹn các
học giới. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo nào sống không cung kính, không phục tùng
bậc Đạo Sư, …(như trên)… Pháp, …(như trên)… hội chúng (Tăng)…, có sự thực hành
không trọn vẹn các học giới, vị ấy gây nên sự tranh cãi trong hội chúng là sự
tranh cãi không đem lại lợi ích cho nhiều người không đem lại an lạc cho nhiều
người, không đem lại sự tấn hóa cho nhiều người, không đem lại lợi ích mà đem
lại khổ đau cho chư thiên và nhân loại. Này các tỷ-kheo, nếu các ngươi nhận thức
được nguyên nhân tranh cãi có hình thức như thế một cách chủ quan và khách quan,
trong trường hợp này, này các tỷ-kheo, các ngươi nên nỗ lực đạt đến sự chấm dứt
chính cái nguyên nhân tranh cãi xấu xa ấy. Này các tỷ-kheo, nếu các ngươi không
nhận thức được nguyên nhân tranh cãi có hình thức như thế một cách chủ quan hoặc
khách quan, trong trường hợp này, này các tỷ-kheo, các ngươi nên thực hành để
không đem lại sự hỗ trợ trong tương lai cho chính cái nguyên nhân tranh cãi xấu
xa ấy. Như thế nguyên nhân tranh cãi xấu xa ấy có được sự chấm dứt. Như thế
nguyên nhân tranh cãi xấu xa ấy không có được sự hỗ trợ trong tương lai.
Sáu nguyên nhân tranh cãi này là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến
tranh cãi.
[639] Ba nguyên nhân không tốt đẹp nào là nguyên nhân của sự tranh
tụng liên quan đến tranh cãi?
Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này các tỷ-kheo tranh cãi do tâm tham lam,
tranh cãi do tâm xấu xa, tranh cãi do tâm mê muội rằng: "Đây là Pháp," "Đây
không phải là Pháp," "Đây là Luật," "Đây không phải là Luật,"
"Điều ấy đã được đấng Thiện Thệ thuyết giảng và nói đến," "Điều ấy đã
không được đấng Thiện Thệ thuyết giảng và nói đến," "Điều ấy đã được đấng
Thiện Thệ thực hiện," "Điều ấy đã không được đấng Thiện Thệ thực hiện,"
"Điều ấy đã được đấng Thiện Thệ quy định," "Điều ấy đã không được đấng
Thiện Thệ quy định," "Điều ấy là phạm tội," "Điều ấy là không phạm
tội," "Điều ấy là tội nhẹ," "Điều ấy là tội nặng," "Tội sám
hối được," "Tội không sám hội được," "Tội xấu xa," hoặc "Tội
không xấu xa." Ba nguyên nhân không tốt đẹp này là nguyên nhân của sự tranh
tụng liên quan đến tranh cãi.
[640] Ba nguyên nhân tốt đẹp nào là nguyên nhân của sự tranh tụng liên
quan đến tranh cãi?
Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này các tỷ-kheo tranh cãi không do tâm tham
lam, tranh cãi không do tâm xấu xa, tranh cãi không do tâm mê muội rằng: "Đây
là Pháp," "Đây không phải là Pháp," …(như trên)… "Tội xấu xa,"
hoặc "Tội không xấu xa." Ba nguyên nhân tốt đẹp này là nguyên nhân của sự
tranh tụng liên quan đến tranh cãi.
[641] Nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách là gì?
Có sáu nguyên nhân khiển trách là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến
khiển trách. Có ba nguyên nhân không tốt đẹp là nguyên nhân của sự tranh tụng
liên quan đến khiển trách, có ba nguyên nhân tốt đẹp là nguyên nhân của sự tranh
tụng liên quan đến khiển trách. Cơ thể (thân) cũng là nguyên nhân của sự tranh
tụng liên quan đến khiển trách, và lời nói (khẩu) cũng là nguyên nhân của sự
tranh tụng liên quan đến khiển trách.
[642] Sáu nguyên nhân khiển trách nào là nguyên nhân của sự tranh tụng
liên quan đến khiển trách?
Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này vị tỷ-kheo trở nên giận dữ có sự hằn
học. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo nào trở nên giận dữ, có sự hằn học, vị ấy sống
không cung kính, không phục tùng bậc Đạo Sư; vị ấy sống không cung kính, không
phục tùng Pháp; vị ấy sống không cung kính, không phục tùng hội chúng (Tăng); vị
ấy có sự thực hành không trọn vẹn các học giới. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo nào
sống không cung kính, không phục tùng bậc Đạo Sư, …(như trên)… Pháp, …(như
trên)… hội chúng (Tăng)…, có sự thực hành không trọn vẹn các học giới, vị ấy gây
nên sự khiển trách trong hội chúng là sự khiển trách không đem lại lợi ích cho
nhiều người không đem lại an lạc cho nhiều người, không đem lại sự tấn hóa cho
nhiều người, không đem lại lợi ích mà đem lại khổ đau cho chư thiên và nhân
loại. Này các tỷ-kheo, nếu các ngươi nhận thức được nguyên nhân khiển trách có
hình thức như thế một cách chủ quan và khách quan, trong trường hợp này, này các
tỷ-kheo, các ngươi nên nỗ lực đạt đến sự chấm dứt chính cái nguyên nhân khiển
trách xấu xa ấy. Này các tỷ-kheo, nếu các ngươi không nhận thức được nguyên nhân
khiển trách có hình thức như thế một cách chủ quan hoặc khách quan, trong trường
hợp này, này các tỷ-kheo, các ngươi nên thực hành để không đem lại sự hỗ trợ
trong tương lai cho chính cái nguyên nhân khiển trách xấu xa ấy. Như thế nguyên
nhân khiển trách xấu xa ấy có được sự chấm dứt. Như thế nguyên nhân khiển trách
xấu xa ấy không có được sự hỗ trợ trong tương lai.
[643] Này các tỷ-kheo, còn có điều khác nữa: Có vị tỷ-kheo trở nên đạo
đức giả và dối trá, …(như trên)…, trở nên đố kỵ và bỏn xẻn, trở nên mưu mẹo và
xảo trá, trở nên ác dục và tà kiến, trở nên chấp thủ một cách lộ liễu, ương
ngạnh, khó sửa đổi. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo nào trở nên chấp thủ một cách lộ
liễu, ương ngạnh, khó sửa đổi, vị ấy sống không cung kính, không phục tùng bậc
Đạo Sư; vị ấy sống không cung kính, không phục tùng Pháp; vị ấy sống không cung
kính, không phục tùng hội chúng (Tăng); vị ấy có sự thực hành không trọn vẹn các
học giới. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo nào sống không cung kính, không phục tùng
bậc Đạo Sư, …(như trên)… Pháp, …(như trên)… hội chúng (Tăng)…, có sự thực hành
không trọn vẹn các học giới, vị ấy gây nên sự khiển trách trong hội chúng là sự
khiển trách không đem lại lợi ích cho nhiều người không đem lại an lạc cho nhiều
người, không đem lại sự tấn hóa cho nhiều người, không đem lại lợi ích mà đem
lại khổ đau cho chư thiên và nhân loại. Này các tỷ-kheo, nếu các ngươi nhận thức
được nguyên nhân khiển trách có hình thức như thế một cách chủ quan và khách
quan, trong trường hợp này, này các tỷ-kheo, các ngươi nên nỗ lực đạt đến sự
chấm dứt chính cái nguyên nhân khiển trách xấu xa ấy. Này các tỷ-kheo, nếu các
ngươi không nhận thức được nguyên nhân khiển trách có hình thức như thế một cách
chủ quan hoặc khách quan, trong trường hợp này, này các tỷ-kheo, các ngươi nên
thực hành để không đem lại sự hỗ trợ trong tương lai cho chính cái nguyên nhân
khiển trách xấu xa ấy. Như thế nguyên nhân khiển trách xấu xa ấy có được sự chấm
dứt. Như thế nguyên nhân khiển trách xấu xa ấy không có được sự hỗ trợ trong
tương lai.
Sáu nguyên nhân khiển trách này là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan
đến khiển trách.
[644] Ba nguyên nhân không tốt đẹp nào là nguyên nhân của sự tranh
tụng liên quan đến khiển trách?
Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này các tỷ-kheo khiển trách một vị tỷ-kheo
do tâm tham lam, khiển trách do tâm xấu xa, khiển trách do tâm mê muội với sự hư
hỏng về giới, hoặc với sự hư hỏng về sở hành, hoặc với sự hư hỏng về tri kiến,
hoặc với sự hư hỏng về nuôi mạng.
Ba nguyên nhân không tốt đẹp này là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan
đến khiển trách.
[645] Ba nguyên nhân tốt đẹp nào là nguyên nhân của sự tranh tụng liên
quan đến khiển trách? Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này các tỷ-kheo khiển
trách một vị tỷ-kheo không do tâm tham lam, khiển trách không do tâm xấu xa,
khiển trách không do tâm mê muội với sự hư hỏng về giới, với sự hư hỏng về sở
hành, với sự hư hỏng về tri kiến, hoặc với sự hư hỏng về nuôi mạng.
Ba nguyên nhân tốt đẹp này là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến
khiển trách.
[646] Cơ thể (thân) như thế nào là nguyên nhân của sự tranh tụng liên
quan đến khiển trách? Trong trường hợp này, có vị có màu da tối, có vóc dáng xấu
xí, dị dạng (okotimako), nhiều bệnh: hoặc là chột mắt, hoặc là chân bị tật,
hoặc bị què, hoặc bị liệt, các vị khiển trách vị kia về điều ấy. Cơ thể (thân)
như thế ấy là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách.
[647] Lời nói (khẩu) như thế nào là nguyên nhân của sự tranh tụng liên
quan đến khiển trách? Trong trường hợp này, có vị có giọng nói gắt gỏng, có tật
cà lăm, có giọng nói khàn khàn, các vị khiển trách vị kia về điều ấy. Lời nói
(khẩu) như thế ấy là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách.
[648] Nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tội là gì? Sáu nguồn
gốc sanh khởi sự phạm tội là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tội. Có
sự phạm tội sanh khởi từ thân, không phải từ lời nói, không phải từ ý nghĩ. Có
sự phạm tội sanh khởi từ lời nói, không phải từ thân, không phải từ ý nghĩ. Có
sự phạm tội sanh khởi từ thân và từ lời nói, không phải từ ý nghĩ. Có sự phạm
tội sanh khởi từ thân và từ ý nghĩ, không phải từ lời nói. Có sự phạm tội sanh
khởi từ lời nói và từ ý nghĩ, không phải từ thân. Có sự phạm tội sanh khởi từ
thân, từ lời nói, và từ ý nghĩ.
Sáu nguồn gốc sanh khởi sự phạm tội này là nguyên nhân của sự tranh tụng liên
quan đến tội.
[649] Nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ là gì? Có
một nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ là: Hội chúng.
[650] Sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi là tốt, là xấu, hay là
không tốt không xấu?
Sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi có thể là tốt, có thể là xấu, có thể là
không tốt không xấu.
[651] Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi là xấu là như thế
nào? Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này, các tỷ-kheo tranh cãi do tâm bất
thiện: "Đây là Pháp," "Đây không phải là Pháp," …(như trên)… "Tội
xấu xa," hoặc "Tội không xấu xa." Ở đây, việc nào là xung đột, gây
gỗ, tranh luận, tranh cãi, nhiều quan điểm, khác quan điểm, đặt tên cho một sự
việc mới được thành tựu đưa đến gây gỗ (vipaccatāya vohāro medhagam-), việc ấy
tức là sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi được gọi là xấu.
[652] Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi là tốt là như thế
nào? Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này, các tỷ-kheo tranh cãi do tâm thiện:
"Đây là Pháp," "Đây không phải là Pháp," …(như trên)… "Tội xấu
xa," hoặc "Tội không xấu xa." Ở đây, việc nào là xung đột, gây gỗ,
tranh luận, tranh cãi, nhiều quan điểm, khác quan điểm, đặt tên cho một sự việc
mới được thành tựu đưa đến gây gỗ (vipaccatāya vohāro medhagam-), việc ấy tức là
sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi được gọi là tốt.
[653] Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi là không tốt không
xấu là như thế nào? Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này, các tỷ-kheo tranh cãi
do tâm vô ký: "Đây là Pháp," "Đây không phải là Pháp," …(như
trên)… "Tội xấu xa," hoặc "Tội không xấu xa." Ở đây, việc nào là
xung đột, gây gỗ, tranh luận, tranh cãi, nhiều quan điểm, khác quan điểm, đặt
tên cho một sự việc mới được thành tựu đưa đến gây gỗ (vipaccatāya vohāro
medhagam-), việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi được gọi là
không tốt không xấu.
[654] Sự tranh tụng liên quan đến khiển trách là tốt, là xấu, hay là
không tốt không xấu?
Sự tranh tụng liên quan đến khiển trách có thể là tốt, có thể là xấu, có thể
là không tốt không xấu.
[655] Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách là xấu là như thế
nào? Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này, các tỷ-kheo do tâm bất thiện khiển
trách một vị tỷ-kheo với sự hư hỏng vì giới, với sự hư hỏng về sở hành, với sự
hư hỏng về tri kiến, hoặc với sự hư hỏng về nuôi mạng. Ở đây, việc nào là sự
khiển trách, sự xoi mói, sự buộc tội, sự chỉ trích, sự moi móc
(amusampavaṅkatā), sự xúi giục (abbhussahanatā), sự khích động
(anubalappadānam-), việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến khiển trách được
gọi là xấu.
[656] Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách là tốt là như thế
nào? Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này, các tỷ-kheo do tâm thiện khiển trách
một vị tỷ-kheo với sự hư hỏng vì giới, với sự hư hỏng về sở hành, với sự hư hỏng
về tri kiến, hoặc với sự hư hỏng về nuôi mạng. Ở đây, việc nào là sự khiển
trách, sự xoi mói, sự buộc tội, sự chỉ trích, sự moi móc (amusampavaṅkatā), sự
xúi giục (abbhussahanatā), sự khích động (anubalappadānam-), việc ấy tức là sự
tranh tụng liên quan đến khiển trách được gọi là tốt.
[657] Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách là không tốt
không xấu là như thế nào? Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này, các tỷ-kheo do
tâm vô ký khiển trách một vị tỷ-kheo với sự hư hỏng vì giới, với sự hư hỏng về
sở hành, với sự hư hỏng về tri kiến, hoặc với sự hư hỏng về nuôi mạng. Ở đây,
việc nào là sự khiển trách, sự xoi mói, sự buộc tội, sự chỉ trích, sự moi móc
(amusampavaṅkatā), sự xúi giục (abbhussahanatā), sự khích động
(anubalappadānam-), việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến khiển trách được
gọi là không tốt không xấu.
[658] Sự tranh tụng liên quan đến tội là tốt, là xấu, hay là không tốt
không xấu?
Sự tranh tụng liên quan đến tội có thể là xấu, có thể là không tốt không xấu,
không có sự tranh tụng liên quan đến tội là tốt.
[659] Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến tội là xấu là như thế nào?
Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này, (vị tỷ-kheo) biết, nhận thức được, rồi cố
ý làm tới, và vi phạm; việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến tội được gọi
là xấu.
Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến tội là không tốt không xấu là như thế nào?
Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này, (vị tỷ-kheo) không biết, không nhận thức
được, không cố ý làm tới, và vi phạm; việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến
tội được gọi là không tốt không xấu.
[660] Sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ là tốt, là xấu, hay là
không tốt không xấu?
Sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ có thể là tốt, có thể là xấu, có thể là
không tốt không xấu.
[661] Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ là xấu là như thế
nào? Hành sự nào hội chúng thực thi với tâm bất thiện: là hành sự với sự thỏa
thuận (apalokanakammam-), hành sự với lời thông báo, hành sự với lời thông báo
đến lần thứ hai, (hay là) hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư; việc ấy tức
là sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ được gọi là xấu.
[662] Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ là tốt là như thế
nào? Hành sự nào hội chúng thực thi với tâm tâm thiện: là hành sự với sự thỏa
thuận (apalokanakammam-), hành sự với lời thông báo, hành sự với lời thông báo
đến lần thứ hai, hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư; việc ấy tức là sự
tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ được gọi là tốt.
[663] Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ là không tốt không
xấu là như thế nào? Hành sự nào hội chúng thực thi với tâm vô ký: là hành sự với
sự thỏa thuận (apalokanakammam-), hành sự với lời thông báo, hành sự với lời
thông báo đến lần thứ hai, hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư; việc ấy tức
là sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ được gọi là không tốt không xấu.
[664] (Một việc có thể) là sự tranh cãi (hoặc là) sự tranh tụng liên
quan đến tranh cãi, là sự tranh cãi không là sự tranh tụng, là sự tranh tụng
không là sự tranh cãi, vừa là sự tranh tụng vừa là sự tranh cãi (hay không)?
(Một việc) có thể là sự tranh cãi (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến tranh
cãi, có thể là sự tranh cãi không là sự tranh tụng, có thể là sự tranh tụng
không là sự tranh cãi, có thể vừa là sự tranh tụng vừa là sự tranh cãi.
[665] Ở đây, việc nào là sự tranh cãi (hoặc là) sự tranh tụng liên
quan đến tranh cãi? Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này các tỷ-kheo tranh cãi
rằng: "Đây là Pháp," "Đây không phải là Pháp," …(như trên)… "Tội
xấu xa," hoặc "Tội không xấu xa." Ở đây, việc nào là xung đột, gây
gỗ, tranh luận, tranh cãi, nhiều quan điểm, khác quan điểm, đặt tên cho một sự
việc mới được thành tựu đưa đến gây gỗ (vipaccatāya vohāro medhagam-); việc ấy
là sự tranh cãi (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi.
Ở đây, việc nào là sự tranh cãi không là sự tranh tụng? Mẹ tranh cãi với con
trai, con trai tranh cãi với mẹ, cha tranh cãi với con trai, con trai tranh cãi
với cha, anh em trai tranh cãi với anh em trai, anh em trai tranh cãi với chị em
gái, chị em gái tranh cãi với anh em trai, bạn bè tranh cãi với bạn bè; việc ấy
là sự tranh cãi không là sự tranh tụng.
Ở đây, việc nào là sự tranh tụng không là sự tranh cãi? Sự tranh tụng liên
quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên quan đến tội, sự tranh tụng liên quan
đến nhiệm vụ; việc ấy là sự tranh tụng không là sự tranh cãi.
Ở đây, việc nào vừa là sự tranh tụng vừa là sự tranh cãi? Sự tranh tụng liên
quan đến tranh cãi vừa là sự tranh tụng vừa là sự tranh cãi.
[666] (Một việc có thể) là sự khiển trách (hoặc là) sự tranh tụng liên
quan đến khiển trách, là sự khiển trách không là sự tranh tụng, là sự tranh tụng
không là sự khiển trách, vừa là sự tranh tụng vừa là sự khiển trách (hay không)?
(Một việc) có thể là sự khiển trách (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến
khiển trách, có thể là sự khiển trách không là sự tranh tụng, có thể là sự tranh
tụng không là sự khiển trách, có thể vừa là sự tranh tụng vừa là sự khiển trách.
[667] Ở đây, việc nào là sự khiển trách (hoặc là) sự tranh tụng liên
quan đến khiển trách?
Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này các tỷ-kheo khiển trách một vị tỷ-kheo
với sự hư hỏng vì giới, với sự hư hỏng về sở hành, với sự hư hỏng về tri kiến,
hoặc với sự hư hỏng về sự nuôi mạng. Ở đây, việc nào là sự khiển trách, sự xoi
mói, sự buộc tội, sự chỉ trích, sự moi móc (amusampavaṅkatā), sự xúi giục
(abbhussahanatā), sự khích động (anubalappadānam-); việc ấy là sự khiển trách
(hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến khiển trách.
Ở đây, việc nào là sự khiển trách nào không là sự tranh tụng? Mẹ khiển trách
con trai, con trai khiển trách mẹ, cha khiển trách con trai, con trai khiển
trách cha, anh em trai khiển trách anh em trai, anh em trai khiển trách chị em
gái, chị em gái khiển trách anh em trai, bạn bè khiển trách bạn bè; việc ấy là
sự khiển trách không là sự tranh tụng.
Ở đây, việc nào là sự tranh tụng không là sự khiển trách? Sự tranh tụng liên
quan đến tội, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ, sự tranh tụng liên quan đến
tranh cãi; việc ấy là sự tranh tụng không là sự khiển trách.
Ở đây, việc nào vừa là sự tranh tụng vừa là sự khiển trách? Sự tranh tụng
liên quan đến khiển trách vừa là sự tranh tụng vừa là sự khiển trách.
[668] (Một việc có thể) là sự phạm tội (hoặc là) sự tranh tụng liên
quan đến tội, là sự phạm tội không là sự tranh tụng, là sự tranh tụng không là
sự phạm tội, vừa là sự tranh tụng vừa là sự phạm tội (hay không)?
(Một việc) có thể là sự phạm tội (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến tội,
có thể là sự phạm tội không là sự tranh tụng, có thể là sự tranh tụng không là
sự phạm tội, có thể vừa là sự tranh tụng vừa là sự phạm tội.
[669] Ở đây, việc nào là sự phạm tội (hoặc là) sự tranh tụng liên quan
đến phạm tội? Năm nhóm tội là sự tranh tụng liên quan đến tội, và bảy nhóm tội
là sự tranh tụng liên quan đến tội; việc ấy là sự phạm tội (hoặc là) sự tranh
tụng liên quan đến tội.
Ở đây, việc nào là āpatti (sự phạm tội) không là sự tranh tụng? Quả vị Nhập
Lưu (Sotāpatti), sự thành đạt (samāpatti) (đây là nghệ thuật chơi chữ với từ
āpatti); việc ấy là āpatti (sự phạm tội) không là sự tranh tụng.
Ở đây, việc nào là sự tranh tụng không là sự phạm tội? Sự tranh tụng liên
quan đến nhiệm vụ, sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi, sự tranh tụng liên
quan đến khiển trách; việc ấy là sự tranh tụng không là sự phạm tội.
Ở đây, việc nào vừa là sự tranh tụng vừa là sự phạm tội? Sự tranh tụng liên
quan đến tội vừa là sự tranh tụng vừa là sự phạm tội.
[670] (Một việc có thể) là nhiệm vụ (hoặc là) sự tranh tụng liên quan
đến nhiệm vụ, là nhiệm vụ không là sự tranh tụng, là sự tranh tụng không là
nhiệm vụ, vừa là sự tranh tụng vừa là nhiệm vụ (hay không)?
(Một việc) có thể là nhiệm vụ (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ,
có thể là nhiệm vụ không là sự tranh tụng, có thể là sự tranh tụng không là
nhiệm vụ, có thể vừa là sự tranh tụng vừa là nhiệm vụ.
[671] Ở đây, việc nào là nhiệm vụ (hoặc là) sự tranh tụng liên quan
đến nhiệm vụ? Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này, Việc nào của hội chúng cần
phải hoàn thành, cần phải thực thi, là hành sự với sự thỏa thuận
(apalokanakammam-), hành sự với lời thông báo, hành sự với lời thông báo đến lần
thứ hai, hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư; việc ấy là nhiệm vụ (hoặc là)
sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.
Ở đây, việc nào là nhiệm vụ không là sự tranh tụng? Nhiệm vụ của thầy giáo
thọ, nhiệm vụ của thầy tế độ, nhiệm vụ của các vị chung thầy tế độ, nhiệm vụ của
các vị chung thầy giáo thọ; việc ấy là nhiệm vụ không là sự tranh tụng.
Ở đây, việc nào là sự tranh tụng không là nhiệm vụ? Sự tranh tụng liên quan
đến tranh cãi, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên quan
đến tội; việc ấy là sự tranh tụng không là nhiệm vụ.
Ở đây, việc nào vừa là sự tranh tụng vừa là nhiệm vụ? Sự tranh tụng liên quan
đến nhiệm vụ vừa là sự tranh tụng vừa là nhiệm vụ.
9. Chỉ định cách dàn xếp một sự tranh tụng:
[672] - Một sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi được lắng dịu bởi
bao nhiêu cách dàn xếp?
- Một sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi được lắng dịu bởi hai cách dàn
xếp: cách hành xử Luật với sự hiện diện và cách thuận theo số đông.
- Nếu có sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi không đạt được một cách dàn
xếp là thuận theo số đông, thì có thể làm yên ổn bằng cách hành xử Luật với sự
hiện diện hay không?
- Nên giải thích cho vị ấy rằng: "Có thể." Như vậy là thế nào? Này các
tỷ-kheo, trong trường hợp này các tỷ-kheo tranh cãi: "Đây là Pháp," "Đây
không phải là Pháp," "Đây là Luật," "Đây không phải là Luật,"
"Điều ấy đã được đấng Thiện Thệ thuyết giảng và nói đến," "Điều ấy đã
không được đấng Thiện Thệ thuyết giảng và nói đến," "Điều ấy đã được đấng
Thiện Thệ thực hiện," "Điều ấy đã không được đấng Thiện Thệ thực hiện,"
"Điều ấy đã được đấng Thiện Thệ quy định," "Điều ấy đã không được đấng
Thiện Thệ quy định," "Điều ấy là phạm tội," "Điều ấy là không phạm
tội," "Điều ấy là tội nhẹ," "Điều ấy là tội nặng," "Tội sám
hối được," "Tội không sám hội được," "Tội xấu xa," hoặc "Tội
không xấu xa." Này các tỷ-kheo, nếu các tỷ-kheo ấy có thể giải quyết sự
tranh tụng ấy, này các tỷ-kheo, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải
quyết. Được giải quyết nhờ vào điều gì? Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện
diện. Và ở đây, điều gì trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? Sự hiện diện
của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của
nhân sự. Và ở đây, sự hiện diện của hội chúng là gì? Cần nhiều tỷ-kheo có khả
năng cho các hành sự và các vị ấy đã đi đến, sự tùy thuận của các vị xứng đáng
gởi sự tùy thuận đã được đem lại, trong khi hiện diện các vị không phản đối; ở
đây, điều ấy là sự hiện diện của hội chúng. Và ở đây, sự hiện diện của Pháp, sự
hiện diện của Luật là gì? Pháp nào, Luật nào, lời giảng dạy nào của bậc Đạo Sư
giải quyết sự tranh tụng ấy; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của Pháp, là sự hiện
diện của Luật. Và ở đây, sự hiện diện của nhân sự là gì? Vị tranh cãi, vị tranh
cãi với vị ấy, cả hai phe đối địch của sự kiện đều hiện diện; ở đây, điều ấy là
sự hiện diện của nhân sự. Này các tỷ-kheo, khi đã được giải quyết như thế, nếu
có vị làm khơi lại sự tranh tụng, vị khơi lại ấy phạm tội ưng đối trị
(pācittiya); nếu vị đã gởi sự thỏa thuận mà chỉ trích, vị chỉ trích phạm tội ưng
đối trị (pācittiya).
[673] Này các tỷ-kheo, nếu các tỷ-kheo ấy không thể giải quyết sự
tranh tụng ấy tại trú xứ ấy, này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ấy nên đi đến một trú
xứ có nhiều tỷ kheo hơn. Này các tỷ-kheo, trong lúc đang đi trên đường đến trú
xứ kia, nếu các tỷ-kheo ấy có thể giải quyết sự tranh tụng ấy; này các tỷ-kheo,
điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải quyết. Được giải quyết nhờ vào
điều gì? Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện. Và ở đây, điều gì trong
cách hành xử Luật với sự hiện diện? Sự hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của
Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự. Và ở đây, sự hiện diện
của hội chúng là gì? Cần nhiều tỷ-kheo có khả năng cho các hành sự và các vị ấy
đã đi đến, sự tùy thuận của các vị xứng đáng gởi sự tùy thuận đã được đem lại,
trong khi hiện diện các vị không phản đối; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của
hội chúng. Và ở đây, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật là gì? Pháp
nào, Luật nào, lời giảng dạy nào của bậc Đạo Sư giải quyết sự tranh tụng ấy; ở
đây, điều ấy là sự hiện diện của Pháp, là sự hiện diện của Luật. Và ở đây, sự
hiện diện của nhân sự là gì? Vị tranh cãi, vị tranh cãi với vị ấy, cả hai phe
đối địch của sự kiện đều hiện diện; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của nhân sự.
Này các tỷ-kheo, khi đã được giải quyết như thế, nếu có vị làm khơi lại sự tranh
tụng, vị khơi lại ấy phạm tội ưng đối trị (pācittiya); nếu vị đã gởi sự thỏa
thuận mà chỉ trích, vị chỉ trích phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
[674] Này các tỷ-kheo, trong lúc đang đi trên đường đến trú xứ kia,
nếu các tỷ-kheo ấy không thể giải quyết sự tranh tụng ấy; này các tỷ-kheo, sau
khi đi đến trú xứ kia, các tỷ-kheo ấy nên nói các tỷ-kheo thường trú như vầy: "Bạch
chư đại đức, sự tranh tụng này đã sanh khởi như vầy, đã diễn tiến như vầy, lành
thay xin các đại đức hãy giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp theo Luật theo
lời dạy của bậc Đạo sư, như thế ấy sự tranh tụng này có thể được giải quyết một
cách tốt đẹp." Này các tỷ-kheo, nếu các tỷ-kheo thường trú thâm niên hơn và
các tỷ-kheo đi đến là kém thâm niên, này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo thường trú nên
nói với các tỷ-kheo đi đến như vầy: "Này các đại đức, các vị hãy chờ ở một
bên trong chốc lát để chúng tôi còn hội ý." Này các tỷ-kheo, nếu các tỷ-kheo
thường trú kém thâm niên và các tỷ-kheo đi đến là thâm niên hơn, này các
tỷ-kheo, các tỷ-kheo thường trú nên nói với các tỷ-kheo đi đến như vầy: "Bạch
chư đại đức, như vậy thì xin các vị hãy chờ ở đây trong chốc lát để chúng tôi
còn hội ý."
Này các tỷ-kheo, nếu các tỷ-kheo thường trú trong lúc hội ý khởi lên như vầy:
"Chúng ta không thể giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp theo Luật theo lời
dạy của bậc Đạo sư được," các tỷ-kheo thường trú không nên nhận lãnh sự
tranh tụng ấy. Này các tỷ-kheo, nếu các tỷ-kheo thường trú trong lúc hội ý khởi
lên như vầy: "Chúng ta có thể giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp theo
Luật theo lời dạy của bậc Đạo sư được," các tỷ-kheo thường trú ấy nên nói
với các tỷ-kheo đi đến như vầy: "Này các đại đức, nếu các vị trình bày cho
chúng tôi sự tranh tụng này đã sanh khởi như thế nào và đã diễn tiến như thế
nào, thì chúng tôi sẽ giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp, theo Luật, theo
lời dạy của bậc Đạo sư theo cách mà theo cách ấy (sự tranh tụng này) sẽ được
giải quyết tốt đẹp; như thế chúng tôi sẽ nhận lãnh sự tranh tụng này. Này các
đại đức, nếu các vị không trình bày cho chúng tôi sự tranh tụng này đã sanh khởi
như thế nào và đã diễn tiến như thế nào, thì chúng tôi sẽ giải quyết sự tranh
tụng này theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư theo cách mà theo
cách ấy (sự tranh tụng này) sẽ không được giải quyết tốt đẹp. Như vậy thì chúng
tôi sẽ không nhận lãnh sự tranh tụng này." Này các tỷ-kheo, sau khi xem xét
kỷ lưỡng như vậy, các tỷ-kheo thường trú nên nhận lãnh sự tranh tụng ấy.
Này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo đi đến ấy nên nói với các tỷ-kheo thường trú như
vầy: "Chúng tôi sẽ trình bày sự tranh tụng này đã sanh khởi như thế nào và đã
diễn tiến như thế nào. Nếu các đại đức có thể giải quyết sự tranh tụng này theo
Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư trong giới hạn chừng ấy thời gian
(ettakena vā ettakena vā antarena), như thế ấy (sự tranh tụng) sẽ được giải
quyết một cách tốt đẹp; như vậy, chúng tôi sẽ giao phó sự tranh tụng này cho các
đại đức. Nếu các đại đức không thể giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp, theo
Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư trong giới hạn chừng ấy thời gian, như thế ấy,
(sự tranh tụng) sẽ không được giải quyết một cách tốt đẹp; như vậy, chúng tôi sẽ
không giao phó sự tranh tụng này cho các đại đức. Chính chúng tôi sẽ là người
chủ trì sự tranh tụng này." Này các tỷ-kheo, sau khi xem xét kỷ lưỡng như
vậy, các tỷ-kheo đi đến nên giao phó sự tranh tụng ấy cho các tỷ-kheo thường
trú.
Này các tỷ-kheo, nếu các tỷ-kheo ấy có thể giải quyết cuộc tranh tụng ấy, này
các tỷ-kheo, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải quyết. Được giải
quyết nhờ vào điều gì? Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện. Và ở đây,
điều gì trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? Sự hiện diện của hội chúng, sự
hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự…(như trên)…
Này các tỷ-kheo, khi đã được giải quyết như thế, nếu có vị làm khơi lại sự tranh
tụng, vị khơi lại ấy phạm tội ưng đối trị (pācittiya); nếu vị đã gởi sự thỏa
thuận mà chỉ trích, vị chỉ trích phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
[675] Này các tỷ-kheo, nếu trong khi các tỷ-kheo ấy phán xét sự tranh
tụng ấy, các lời bàn cãi bất tận được sanh khởi nhưng không một lời phát biểu
nào có ý nghĩa; này các tỷ-kheo, ta cho phép giải quyết sự tranh tụng như thế ấy
theo lối đại biểu (ubbāhikāya). Theo lối đại biểu, cần chỉ định một vị tỷ-kheo
hội đủ mười điều kiện: (là vị) có giới hạnh, sống thu thúc theo sự hạn chế của
giới bổn Pātimokkha, thành tựu trong lãnh vực tánh hạnh, thấy được sự nguy hiểm
trong những tội lỗi nhỏ nhặt, thọ trì và thực hành trong các học giới; là vị đa
văn, nắm giữ và tích lũy các điều đã được nghe, các Pháp nào là tốt đẹp phần
đầu, tốt đẹp phần giữa, tốt đẹp phần cuối, có ý nghĩa, có văn tự, công bố về
phạm hạnh thanh tịnh một cách đầy đủ trọn vẹn, các Pháp có hình thức như thế
được (vị ấy) nghe nhiều, ghi nhớ, ôn đọc ra lời, dùng trí quán sát, dùng tri
kiến phân tích; cả hai bộ giới bổn Pātimokkha đã khéo được truyền thừa từng chi
tiết đến vị ấy, khéo được phân tích, khéo được ứng dụng, khéo được phán xét theo
từng bài kinh, theo từng ý nghĩa; vị ấy thiện xảo trong Luật không có bối rối;
là vị có năng lực để làm cho cả hai phe đối địch của sự kiện phải tin tưởng, suy
nghĩ lại, hiểu được, thấy được, và làm cho hoan hỷ; khéo léo giải quyết sự tranh
tụng đã được diễn tiến; hiểu được sự tranh tụng; hiểu được nguyên cớ của sự
tranh tụng; biết được sự chấm dứt của sự tranh tụng; biết được đường lối thực
hành để chấm dứt sự tranh tụng. Và này các tỷ-kheo, ta cho phép chỉ định theo
lối đại biểu một vị tỷ-kheo hội đủ mười điều kiện này.
[676] Và này các tỷ-kheo, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỷ-kheo
ấy cần được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị
tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:
- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Trong khi chúng ta phán xét
sự tranh tụng này, các lời bàn cãi bất tận được sanh khởi nhưng không một lời
phát biểu nào có ý nghĩa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng
nên chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) và tên (như vầy) để giải quyết sự tranh
tụng này theo lối đại biểu. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Trong khi chúng ta phán xét
sự tranh tụng này, các lời bàn cãi bất tận được sanh khởi nhưng không một lời
phát biểu nào có ý nghĩa. Hội chúng chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) và tên
(như vầy) để giải quyết sự tranh tụng này theo lối đại biểu. Đại đức nào thỏa
thuận với việc chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) và tên (như vầy) để giải quyết
sự tranh tụng này theo lối đại biểu, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có
thể nói lên.
Vị tỷ-kheo tên (như vầy) và tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định để giải
quyết sự tranh tụng này theo lối đại biểu. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên
im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
[677] Này các tỷ-kheo, nếu các tỷ-kheo ấy có thể giải quyết sự tranh
tụng ấy; này các tỷ-kheo, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải quyết.
Được giải quyết nhờ vào điều gì? Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện. Và
ở đây, điều gì trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? Sự hiện diện của hội
chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân
sự…(như trên)… Này các tỷ-kheo, khi đã được giải quyết như thế, nếu có vị làm
khơi lại sự tranh tụng, vị khơi lại ấy phạm tội ưng đối trị (pācittiya); nếu vị
đã gởi sự thỏa thuận mà chỉ trích, vị chỉ trích phạm tội ưng đối trị
(pācittiya).
[678] Này các tỷ-kheo, trong khi các vị ấy đang phán xét sự tranh tụng
ấy, nếu ở đó, có vị tỷ-kheo là vị Pháp sư nhưng kiến thức của vị ấy không được
truyền thừa và sự phân tích không có phương pháp; trong khi không xem xét ý
nghĩa ẩn sau các văn tự, vị ấy lại phủ nhận ý nghĩa. Các tỷ-kheo ấy cần được
thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:
- Xin các đại đức hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo tên (như vầy) là vị Pháp sư
nhưng kiến thức của vị ấy không được truyền thừa và sự phân tích không có phương
pháp; trong khi không xem xét ý nghĩa ẩn sau các văn tự, vị ấy lại phủ nhận ý
nghĩa. Nếu là thời điểm thích hợp cho các đại đức, chúng ta nên loại ra vị
tỷ-kheo tên (như vầy) và những người còn lại (chúng ta) sẽ giải quyết sự tranh
tụng này.
Này các tỷ-kheo, nếu sau khi loại tỷ-kheo ấy ra, các vị tỷ-kheo ấy có thể
giải quyết sự tranh tụng ấy; này các tỷ-kheo, điều ấy được gọi là sự tranh tụng
đã được giải quyết. Được giải quyết nhờ vào điều gì? Nhờ vào cách hành xử Luật
với sự hiện diện. Và ở đây, điều gì trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? Sự
hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện
diện của nhân sự…(như trên)… Này các tỷ-kheo, khi đã được giải quyết như thế,
nếu có vị làm khơi lại sự tranh tụng, vị khơi lại ấy phạm tội ưng đối trị
(pācittiya); nếu vị đã gởi sự thỏa thuận mà chỉ trích, vị chỉ trích phạm tội ưng
đối trị (pācittiya).
[679] Này các tỷ-kheo, trong khi các vị ấy đang phán xét sự tranh tụng
ấy, nếu ở đó, có vị tỷ-kheo là vị Pháp sư và kiến thức của vị ấy được truyền
thừa nhưng sự phân tích không có phương pháp; trong khi không xem xét ý nghĩa ẩn
sau các văn tự, vị ấy lại phủ nhận ý nghĩa. Các tỷ-kheo ấy cần được thông báo
bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:
- Xin các đại đức hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo tên (như vầy) là vị Pháp sư
và kiến thức của vị ấy được truyền thừa nhưng sự phân tích không có phương pháp;
trong khi không xem xét ý nghĩa ẩn sau các văn tự, vị ấy lại phủ nhận ý nghĩa.
Nếu là thời điểm thích hợp cho các đại đức, chúng ta nên loại ra vị tỷ-kheo tên
(như vầy) và những người còn lại (chúng ta) sẽ giải quyết sự tranh tụng này.
Này các tỷ-kheo, nếu sau khi loại tỷ-kheo ấy ra, các vị tỷ-kheo ấy có thể
giải quyết sự tranh tụng ấy; này các tỷ-kheo, điều ấy được gọi là sự tranh tụng
đã được giải quyết. Được giải quyết nhờ vào điều gì? Nhờ vào cách hành xử Luật
với sự hiện diện. Và ở đây, điều gì trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? Sự
hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện
diện của nhân sự…(như trên)… Này các tỷ-kheo, khi đã được giải quyết như thế,
nếu có vị làm khơi lại sự tranh tụng, vị khơi lại ấy phạm tội ưng đối trị
(pācittiya); nếu vị đã gởi sự thỏa thuận mà chỉ trích, vị chỉ trích phạm tội ưng
đối trị (pācittiya).
[680] Này các tỷ-kheo, nếu các vị tỷ-kheo ấy không thể giải quyết sự
tranh tụng ấy theo lối đại biểu, này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ấy nên giao lại sự
tranh tụng ấy cho hội chúng:
- Bạch chư đại đức, chúng tôi không thể giải quyết sự tranh tụng này theo lối
đại biểu, chính hội chúng hãy giải quyết sự tranh tụng này.
Này các tỷ-kheo, ta cho phép giải quyết sự tranh tụng như thế thuận theo số
đông. Nên chỉ định vị phân phát thẻ (salākaggāhāpako) là vị tỷ-kheo hội đủ năm
điều kiện: là vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích; vị không thể bị chi phối
bởi sự sân hận; vị không thể bị chi phối bởi sự si mê; vị không thể bị chi phối
bởi sự sợ hãi; và vị ấy biết (thẻ) đã được nhận hay không được nhận.
…(như trên)…
Tỷ-kheo tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị phân phát thẻ. Sự việc
được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Các thẻ nên được vị tỷ-kheo phân phát thẻ phân phát ra. Khi có đông hơn các
tỷ-kheo là các vị nói đúng Pháp lên tiếng, sự tranh tụng ấy nên được giải quyết
như thế ấy. Này các tỷ-kheo, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải
quyết. Được giải quyết nhờ vào điều gì? Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện
diện. Và ở đây, điều gì trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? Sự hiện diện
của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của
nhân sự. Và ở đây, sự hiện diện của hội chúng là gì? Cần nhiều tỷ-kheo có khả
năng cho các hành sự và các vị ấy đã đi đến, sự tùy thuận của các vị xứng đáng
gởi sự tùy thuận đã được đem lại, trong khi hiện diện các vị không phản đối; ở
đây, điều ấy là sự hiện diện của hội chúng. Và ở đây, sự hiện diện của Pháp, sự
hiện diện của Luật là gì? Pháp nào, Luật nào, lời giảng dạy nào của bậc Đạo Sư
giải quyết sự tranh tụng ấy; ở đây điều ấy là sự hiện diện của Pháp, là sự hiện
diện của Luật. Và ở đây, sự hiện diện của nhân sự là gì? Vị tranh cãi, vị tranh
cãi với vị ấy, cả hai phe đối địch của sự kiện đều hiện diện; ở đây, điều ấy là
sự hiện diện của nhân sự. Và ở đây, điều gì là ở trong việc thuận theo số đông?
Điều nào là sự thực hiện, sự hành động, sự đạt đến, sự thỏa thuận, sự chấp nhận,
sự không phủ nhận thuộc về hành sự thuận theo số đông; ở đây điều ấy là ở trong
việc thuận theo số đông. Này các tỷ-kheo, khi đã được giải quyết như thế, nếu có
vị làm khơi lại sự tranh tụng, vị khơi lại ấy phạm tội ưng đối trị (pācittiya);
nếu vị đã gởi sự thỏa thuận mà chỉ trích, vị chỉ trích phạm tội ưng đối trị
(pācittiya).
[681] Vào lúc bấy giờ, ở Sāvatthi có một sự tranh tụng đã sanh khởi
như vầy và đã diễn tiến như vầy. Khi ấy, các tỷ-kheo không hài lòng với lối giải
quyết tranh tụng của hội chúng ở Sāvatthi, các vị ấy đã nghe được rằng: "Nghe
nói ở một trú xứ nọ, có nhiều trưởng lão cư ngụ là các vị đa văn, thông thạo các
bộ kinh, các vị nắm giữ Pháp, các vị nắm giữ Luật, các vị thuộc lòng các đầu đề,
là các bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, chu đáo, là các vị ưa
thích các học giới. Nếu các trưởng lão ấy giải quyết sự tranh tụng này theo
Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư thì như thế sự tranh tụng này sẽ
được giải quyết tốt đẹp." Sau đó, các tỷ-kheo ấy đã đi đến trú xứ nọ và nói
với các trưởng lão ấy rằng:
- Bạch các ngài, sự tranh tụng này đã sanh khởi như vầy và đã diễn tiến như
vầy. Bạch các ngài, thật tốt đẹp thay các trưởng lão giải quyết sự tranh tụng
này theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư, như thế sự tranh tụng này
sẽ được giải quyết tốt đẹp.
Khi ấy, các trưởng lão ấy (nghĩ rằng): "Sự tranh tụng ở Sāvatthi đã được
hội chúng giải quyết như thế ấy là đã được giải quyết tốt đẹp," rồi đã giải
quyết sự tranh tụng ấy y như vậy.
Khi ấy, các tỷ-kheo kia không hài lòng với lối giải quyết tranh tụng của hội
chúng ở Sāvatthi, không hài lòng với lối giải quyết tranh tụng của nhiều vị
trưởng lão, các vị ấy đã nghe được rằng: "Nghe rằng ở một trú xứ nọ, có ba vị
trưởng lão cư ngụ…(như trên)…có hai vị trưởng lão cư ngụ…(như trên)… có một vị
trưởng lão cư ngụ là vị đa văn, thông thạo các bộ kinh, vị nắm giữ Pháp, vị nắm
giữ Luật, vị thuộc lòng các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh,
khiêm nhường, chu đáo, là vị ưa thích các học giới. Nếu vị trưởng lão ấy giải
quyết sự tranh tụng này theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư thì
như thế sự tranh tụng này sẽ được giải quyết tốt đẹp." Khi ấy, các tỷ-kheo
ấy đã đi đến trú xứ nọ và nói với vị trưởng lão ấy rằng:
- Bạch ngài, sự tranh tụng này đã sanh khởi như vầy và đã diễn tiến như vầy.
Bạch ngài, thật tốt đẹp thay ngài trưởng lão hãy giải quyết sự tranh tụng này
theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư, như thế sự tranh tụng này sẽ
được giải quyết tốt đẹp.
Khi ấy, vị trưởng lão ấy (nghĩ rằng): "Sự tranh tụng ở Sāvatthi đã được
hội chúng giải quyết như thế ấy, sự tranh tụng đã được nhiều vị trưởng lão giải
quyết như thế ấy, sự tranh tụng đã được ba vị trưởng lão giải quyết như thế ấy,
sự tranh tụng đã được hai vị trưởng lão giải quyết như thế ấy là đã được giải
quyết tốt đẹp," rồi vị ấy đã giải quyết sự tranh tụng ấy y như vậy.
Khi ấy, các tỷ-kheo kia không hài lòng với lối giải quyết tranh tụng của hội
chúng ở Sāvatthi, không hài lòng với ối giải quyết tranh tụng của nhiều vị
trưởng lão, không hài lòng với lối giải quyết tranh tụng của ba vị trưởng lão,
không hài lòng với lối giải quyết tranh tụng của hai vị trưởng lão, không hài
lòng với lối giải quyết tranh tụng của một vị trưởng lão, nên đã đi đến gặp đức
Thế Tôn, đến rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, sự tranh tụng ấy đã được dứt điểm, đã được yên lặng, đã
được giải quyết, đã được giải quyết tốt đẹp. Này các tỷ-kheo, vì sự nhận thức rõ
ràng của các tỷ-kheo ấy, ta cho phép ba cách phân phát thẻ: lối kín đáo
(gūlhakam-), với sự nói nhỏ vào tai (sakannajappakam-), lối công khai
(vivatakam-).
Này các tỷ-kheo, thế nào là cách phân phát thẻ theo lối kín đáo? Vị tỷ-kheo
phân phát thẻ nên làm các thẻ khác nhau rồi đi đến gặp từng tỷ-kheo một và nói
như vầy: "Thẻ này là cho vị nói như vầy, thẻ này là cho vị nói như kia. Đại
đức thích cái nào thì nhận cái ấy." Khi giao nên nói rằng: "Và chớ cho
bất cứ ai thấy." Nếu vị ấy biết rằng: "Các vị nói sai Pháp là nhiều hơn,"
nên thực hiện lại (nói rằng): "Sự phân phát (thẻ) bị lầm lẫn." Nếu vị ấy
biết rằng: "Các vị nói đúng Pháp là nhiều hơn," nên công bố (nói rằng): "Sự
phân phát thẻ được tốt đẹp." Này các tỷ-kheo, như vậy là sự phân phát thẻ
theo lối kín đáo.
Này các tỷ-kheo, thế nào là cách phân phát thẻ với sự nói nhỏ vào tai? Vị
tỷ-kheo phân phát thẻ nên nói vào tai của từng tỷ-kheo một rằng: "Thẻ này là
cho vị nói như vầy, thẻ này là cho vị nói như kia. Đại đức thích cái nào thì
nhận cái ấy." Khi giao nên nói rằng: "Và chớ nói cho bất cứ ai." Nếu
vị ấy biết rằng: "Các vị nói sai Pháp là nhiều hơn," nên thực hiện lại
(nói rằng): "Sự phân phát (thẻ) bị lầm lẫn." Nếu vị ấy biết rằng: "Các
vị nói đúng Pháp là nhiều hơn," nên công bố (nói rằng): "Sự phân phát thẻ
được tốt đẹp." Này các tỷ-kheo, như vậy là sự phân phát thẻ với sự nói nhỏ
vào tai.
Này các tỷ-kheo, thế nào là cách phân phát thẻ theo lối công khai? Nếu vị ấy
biết rằng: "Các vị nói đúng Pháp là nhiều hơn," chính nhờ vào sự quả
quyết nên có thể phân phát thẻ theo lối công khai. Này các tỷ-kheo, như vậy là
sự phân phát thẻ theo lối công khai.
Này các tỷ-kheo, đó là ba cách phân phát thẻ.
[682] Một sự tranh tụng liên quan đến khiển trách được lắng dịu bởi
bao nhiêu cách dàn xếp?
Một sự tranh tụng liên quan đến khiển trách được lắng dịu bởi bốn cách dàn
xếp: bằng cách hành xử Luật với sự hiện diện, bằng cách hành xử Luật bằng sự ghi
nhớ, bằng cách hành xử Luật khi không điên cuồng, và theo tội của vị ấy.
[683] - Nếu sự tranh tụng liên quan đến khiển trách không áp dụng được
hai cách dàn xếp là cách hành xử Luật khi không điên cuồng và quy luật theo tội
của vị ấy thì có thể làm yên ổn theo hai cách dàn xếp là cách hành xử Luật với
sự hiện diện và cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ hay không?
Nên trả lời vị ấy rằng: "Có thể." Như vậy là như thế nào? Này các
tỷ-kheo, trong trường hợp này, các tỷ-kheo bôi nhọ một tỷ-kheo với sự hư hỏng về
giới không có nguyên cớ. Này các tỷ-kheo, trường hợp vị tỷ-kheo ấy là vị thành
tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ nên được ban cho.
Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy nên
đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, …(như trên)…, và nên trình với hội
chúng như vầy:
- Bạch chư đại đức, các tỷ-kheo bôi nhọ tôi với sự hư hỏng về giới không có
nguyên cớ. Bạch chư đại đức, tôi là người thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ giờ cầu
xin hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ.
Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba:
[684] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ
năng lực:
- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỷ-kheo bôi nhọ vị
tỷ-kheo tên (như vầy) với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Vị ấy, là vị
thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, cầu xin hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi
nhớ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho cách hành
xử Luật bằng sự ghi nhớ đến tỷ-kheo tên (như vầy) là vị thành tựu đầy đủ về sự
ghi nhớ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỷ-kheo bôi nhọ vị
tỷ-kheo tên (như vầy) với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Vị ấy, là vị
thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, cầu xin hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi
nhớ. Hội chúng ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến tỷ-kheo tên (như
vầy) là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho
cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến tỷ-kheo tên (như vầy) là vị thành tựu đầy
đủ về sự ghi nhớ, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đã được hội chúng ban đến tỷ-kheo tên (như
vầy) là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên
im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Này các tỷ-kheo, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải quyết. Được
giải quyết nhờ vào điều gì? Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và cách
hành xử Luật bằng sự ghi nhớ. Và ở đây, điều gì trong cách hành xử Luật với sự
hiện diện? Sự hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của
Luật, sự hiện diện của nhân sự…(như trên)… Và ở đây, sự hiện diện của nhân sự là
gì? Vị khiển trách và vị bị vị ấy khiển trách, cả hai phe đều hiện diện; ở đây,
điều ấy là sự hiện diện của nhân sự. Và ở đây, điều gì là ở trong cách hành xử
Luật bằng sự ghi nhớ? Điều nào là sự thực hiện, sự hành động, sự đạt đến, sự
thỏa thuận, sự chấp nhận, sự không phủ nhận thuộc về hành sự hành xử Luật bằng
sự ghi nhớ; ở đây điều ấy là ở trong cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ. Này các
tỷ-kheo, khi đã được giải quyết như thế, nếu có vị làm khơi lại sự tranh tụng,
vị khơi lại ấy phạm tội ưng đối trị (pācittiya); nếu vị đã gởi sự thỏa thuận mà
chỉ trích, vị chỉ trích phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
[685] - Nếu sự tranh tụng liên quan đến khiển trách không áp dụng được
hai cách dàn xếp là cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ và theo tội của vị ấy thì
có thể làm yên ổn theo hai cách dàn xếp là cách hành xử Luật với sự hiện diện và
cách hành xử Luật khi không điên cuồng hay không?
Nên trả lời vị ấy rằng: "Có thể." Như vậy là như thế nào? Này các
tỷ-kheo, trong trường hợp này, vị tỷ-kheo bị điên và bị thay đổi tâm tính. Nhiều
việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi vị ấy
khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Các tỷ-kheo đã buộc tội vị ấy với tội đã
được thực hiện khi bị điên và bị thay đổi tâm tính: "Đại đức có nhớ đã vi
phạm tội như thế này không?" Vị ấy nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi bị
điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành
động đã được thực hiện bởi chính tôi khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Tôi
không nhớ được điều ấy. Tôi đã làm điều ấy khi bị điên cuồng." Dù được vị ấy
nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như
thế này không?"
Này các tỷ-kheo, nên ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị
tỷ-kheo ấy khi không bị điên cuồng. Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Này
các tỷ-kheo, tỷ-kheo ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, …(như
trên)… và nên trình với hội chúng như vầy:
- Bạch chư đại đức, tôi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng
là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi chính tôi khi bị điên
và bị thay đổi tâm tính. Các tỷ-kheo đã khiển trách tôi với tội đã được thực
hiện khi bị điên và bị thay đổi tâm tính: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như
thế này không?" Tôi nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi bị điên, bị thay
đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được
thực hiện bởi chính tôi khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được
điều ấy. Tôi đã làm điều ấy khi bị điên cuồng." Dù được vị ấy nói như vậy,
các vị vẫn khiển trách rằng: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?"
Bạch chư đại đức, giờ tôi không điên cuồng nên cầu xin hội chúng cách hành xử
Luật khi không điên cuồng.
Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba:
[686] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ
năng lực:
- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo tên (như vầy) bị
điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành
động đã được thực hiện bởi chính vị ấy khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Các
tỷ-kheo đã khiển trách vị ấy với tội đã được thực hiện khi bị điên và bị thay
đổi tâm tính: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?" Vị ấy
nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc
không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi chính tôi
khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Tôi đã làm điều
ấy khi bị điên cuồng." Dù được vị ấy nói như vậy, các vị vẫn khiển trách
rằng: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?" Giờ vị ấy không
điên cuồng nên vị ấy cầu xin hội chúng cách hành xử Luật khi không điên cuồng.
Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho cách hành xử
Luật khi không điên cuồng đến tỷ-kheo tên (như vầy) khi không bị điên cuồng. Đây
là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo này tên (như vầy) bị
điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành
động đã được thực hiện bởi chính vị ấy khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Các
tỷ-kheo đã khiển trách vị ấy với tội đã được thực hiện khi bị điên và bị thay
đổi tâm tính: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?" Vị ấy
nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc
không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi chính tôi
khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Tôi đã làm điều
ấy khi bị điên cuồng." Dù được vị ấy nói như vậy, các vị vẫn khiển trách
rằng: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?" Giờ vị ấy không
điên cuồng và vị ấy cầu xin hội chúng cách hành xử Luật khi không điên cuồng.
Hội chúng ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến tỷ-kheo tên (như
vầy) khi không bị điên cuồng. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho cách hành xử
Luật khi không điên cuồng đến tỷ-kheo tên (như vầy) khi không bị điên cuồng, xin
im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Cách hành xử Luật khi không điên cuồng đã được hội chúng ban đến tỷ-kheo tên
(như vầy) khi không bị điên cuồng. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im
lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Này các tỷ-kheo, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải quyết. Được
giải quyết nhờ vào điều gì? Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và cách
hành xử Luật khi không điên cuồng. Và ở đây, điều gì trong cách hành xử Luật với
sự hiện diện? Sự hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện
của Luật, sự hiện diện của nhân sự…(như trên)… Và ở đây, điều gì là ở trong cách
hành xử Luật khi không điên cuồng? Điều nào là sự thực hiện, sự hành động, sự
đạt đến, sự thỏa thuận, sự chấp nhận, sự không phủ nhận thuộc về hành sự hành xử
Luật khi không điên cuồng; ở đây điều ấy là ở trong cách hành xử Luật khi không
điên cuồng. Này các tỷ-kheo, khi đã được giải quyết như thế, nếu có vị làm khơi
lại sự tranh tụng, vị khơi lại ấy phạm tội ưng đối trị (pācittiya); nếu vị đã
gởi sự thỏa thuận mà chỉ trích, vị chỉ trích phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
[687] - Nếu sự tranh tụng liên quan đến khiển trách không áp dụng được
hai cách dàn xếp là cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ và cách hành xử Luật khi
không điên cuồng thì có thể làm yên ổn theo hai cách dàn xếp là cách hành xử
Luật với sự hiện diện và theo tội của vị ấy hay không?
Nên trả lời vị ấy rằng: "Có thể." Như vậy là như thế nào? Này các
tỷ-kheo, trong trường hợp này, vị tỷ-kheo buộc tội một tỷ-kheo với tội nặng: "Đại
đức có nhớ là đã phạm tội nặng như thế này là tội pārājika hoặc gần như là tội
pārājika không?" Vị ấy nói như vầy: "Này đại đức tôi không nhớ là đã phạm
tội như thế ấy, là tội pārājika hoặc gần như là tội pārājika." Trong khi vị
ấy giải thích, vị kia lại già lý lẽ hơn nữa: "Này đại đức hãy xem kỹ lại đi,
xem thử có nhớ lại là đã phạm tội nặng như thế nầy là tội pārājika hoặc gần như
tội pārājika." Vị ấy nói như vầy: "Này đại đức, tôi không nhớ là đã phạm
tội như thế ấy, là tội pārājika hoặc gần như là tội pārājika. tôi chỉ nhớ là đã
phạm tội nhẹ như thế ấy." Trong khi vị ấy giải thích, vị kia lại già lý lẽ
hơn nữa: "Này đại đức, hãy xem kỹ lại đi, xem thử có nhớ lại là đã phạm tội
nặng như thế nầy là tội pārājika hoặc gần như tội pārājika." Vị ấy nói như
vầy: "Này đại đức, khi đã phạm tội nhẹ tôi sẽ chấp nhận dầu không được hỏi
đến. Khi đã phạm tội nặng như thế ấy, là tội pārājika hoặc gần như tội pārājika,
không lẽ tôi không chấp nhận khi được hỏi đến?" Vị kia nói như vấy: "Này
đại đức, chính đại đức khi đã phạm tội nhẹ sẽ không chấp nhận khi không được hỏi
đến. Thì khi đã phạm tội nặng như thế ấy, là tội pārājika hoặc gần như tội
pārājika, không lẽ đại đức lại chấp nhận khi không được hỏi đến? Này đại
đức, hãy xem kỹ lại đi, xem thử có nhớ lại là đã phạm tội nặng như thế nầy là
tội pārājika hoặc gần như tội pārājika." Vị ấy nói như vầy: "Này đại đức,
tôi nhớ ra là đã phạm tội như thế ấy, là tội pārājika hoặc gần như là tội
pārājika. Điều tôi nói rằng: "Tôi không nhớ là đã phạm tội như thế ấy, là tội
pārājika hoặc gần như là tội pārājika" là chỉ nói cho vui, nói cho có nói."
Này các tỷ-kheo, hành sự theo tội của vị ấy nên được ban đến cho vị tỷ-kheo ấy.
[688] Và này các tỷ-kheo, nên thực thi như vầy: Hội chúng cần được
thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:
- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo này tên (như
vầy) trong khi được tra hỏi các tội trước hội chúng đã phủ nhận rồi lại thừa
nhận, đã thừa nhận rồi lại phủ nhận, đã tránh né tội ấy bằng một tội khác, nói
điều dối trá có chủ ý. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên
thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến tỷ-kheo tên (như vầy). Đây là lời đề
nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo này tên (như vầy)
trong khi được tra hỏi các tội trước hội chúng đã phủ nhận rồi lại thừa nhận, đã
thừa nhận rồi lại phủ nhận, đã tránh né tội ấy bằng một tội khác, nói điều dối
trá có chủ ý. Hội chúng thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến tỷ-kheo tên (như
vầy). Đại đức nào thỏa thuận với việc thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến
tỷ-kheo tên (như vầy), xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Hành sự theo tội của vị ấy đã được hội chúng thực thi đến tỷ-kheo tên (như
vầy). Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là
như vậy.
Này các tỷ-kheo, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải quyết. Được
giải quyết nhờ vào điều gì? Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và theo
tội của vị ấy. Và ở đây, điều gì trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? Sự
hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện
diện của nhân sự…(như trên)… Và ở đây, điều gì là ở trong (cách giải quyết) theo
tội của vị ấy? Điều nào là sự thực hiện, sự hành động, sự đạt đến, sự thỏa
thuận, sự chấp nhận, sự không phủ nhận thuộc về hành sự (giải quyết) theo tội
của vị ấy; ở đây điều ấy là ở trong (cách giải quyết) theo tội của vị ấy. Này
các tỷ-kheo, khi đã được giải quyết như thế, nếu có vị làm khơi lại sự tranh
tụng, vị khơi lại ấy phạm tội ưng đối trị (pācittiya); nếu vị đã gởi sự thỏa
thuận mà chỉ trích, vị chỉ trích phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
[689] Một sự tranh tụng liên quan đến tội được lắng dịu bởi bao nhiêu
cách cách dàn xếp?
Một sự tranh tụng liên quan đến tội được lắng dịu bởi ba cách dàn xếp: bằng
cách hành xử Luật với sự hiện diện, bằng việc phán xử theo tội đã được thừa
nhận, và bằng cách dùng cỏ che lấp.
[690] - Nếu sự tranh tụng liên quan đến tội không áp dụng được một
cách dàn xếp là dùng cỏ che lấp thì có thể làm yên ổn theo hai cách dàn xếp là
cách hành xử Luật với sự hiện diện và việc phán xử theo tội đã được thừa nhận
hay không?
Nên trả lời vị ấy rằng: "Có thể." Như vậy là như thế nào? Này các
tỷ-kheo, trong trường hợp này, một vị tỷ-kheo phạm tội nhẹ. Này các tỷ-kheo, vị
tỷ-kheo ấy nên đi đến gặp một tỷ-kheo, đắp thượng y một bên vai, rồi ngồi chồm
hổm, chắp tay lại, và nên trình với vị ấy như vầy:
- Này đại đức, tôi đã phạm một tội tên (như vầy), tôi xin trình tội ấy.
Vị kia nên được nói rằng:
- Đại đức thấy được (tội) không?
- Thưa có, tôi thấy được.
- Đại đức hãy thu thúc trong tương lai.
Này các tỷ-kheo, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải quyết. Được
giải quyết nhờ vào điều gì? Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và việc
phán xử theo tội đã được thừa nhận. Và ở đây, điều gì trong cách hành xử Luật
với sự hiện diện? Sự hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện
diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự…(như trên)… Và ở đây, sự hiện diện của
nhân sự là gì? Vị khai báo (tội) và vị chứng minh vị ấy khai báo (tội), cả hai
phe đều hiện diện; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của nhân sự. Và ở đây, điều gì
là ở trong việc phán xử theo tội đã được thừa nhận? Điều nào là sự thực hiện, sự
hành động, sự đạt đến, sự thỏa thuận, sự chấp nhận, sự không phủ nhận thuộc về
hành sự phán xử theo tội đã được thừa nhận; ở đây điều ấy là ở trong việc phán
xử theo tội đã được thừa nhận. Này các tỷ-kheo, khi đã được giải quyết như thế,
nếu vị ghi nhận (tội) khơi lại sự tranh tụng, vị khơi lại ấy phạm tội ưng đối
trị (pācittiya).
Nếu vị ấy chấp nhận như thế, theo đó việc ấy là tốt đẹp. Nếu vị ấy không chấp
nhận như thế, này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy nên đi đến gặp nhiều vị tỷ-kheo,
đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo thâm niên, rồi ngồi chồm
hổm, chắp tay lại, và nên trình với vị ấy như vầy:
- Bạch chư đại đức, tôi đã phạm một tội tên (như vầy), tôi xin trình tội ấy.
Các tỷ-kheo ấy cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:
- Xin chư đại đức hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo này tên (như vầy) nhớ được, bộc
lộ ra, nói ra bằng lời, trình ra sự phạm tội. Nếu là thời điểm thích hợp cho chư
đại đức, xin các vị hãy thừa nhận sự phạm tội của vị tỷ-kheo tên (như vầy).
Vị ấy nên được nói rằng:
- Đại đức thấy được (tội) không?
- Thưa có, tôi thấy được.
- Đại đức hãy thu thúc trong tương lai.
Này các tỷ-kheo, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải quyết. Được
giải quyết nhờ vào điều gì? Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và việc
phán xử theo tội đã được thừa nhận. Và ở đây, điều gì trong cách hành xử Luật
với sự hiện diện? Sự hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện
diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự…(như trên)… Và ở đây, sự hiện diện của
nhân sự là gì? Vị khai báo (tội) và vị chứng minh vị ấy khai báo (tội), cả hai
phe đều hiện diện; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của nhân sự. Và ở đây, điều gì
là ở trong việc phán xử theo tội đã được thừa nhận? Điều nào là sự thực hiện, sự
hành động, sự đạt đến, sự thỏa thuận, sự chấp nhận, sự không phủ nhận thuộc về
hành sự phán xử theo tội đã được thừa nhận; ở đây điều ấy là ở trong việc phán
xử theo tội đã được thừa nhận. Này các tỷ-kheo, khi đã được giải quyết như thế,
nếu vị ghi nhận (tội) khơi lại sự tranh tụng, vị khơi lại ấy phạm tội ưng đối
trị (pācittiya).
Nếu vị ấy chấp nhận như thế, theo đó việc ấy là tốt đẹp. Nếu vị ấy không chấp
nhận như thế, này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y
một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo thâm niên, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay
lại, và nên trình với vị ấy như vầy:
- Bạch chư đại đức, tôi đã phạm một tội tên (như vầy), tôi xin trình tội ấy.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:
- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo này tên (như vầy)
nhớ được, bộc lộ ra, nói ra bằng lời, trình ra sự phạm tội. Nếu là thời điểm
thích hợp cho hội chúng, tôi xin thừa nhận sự phạm tội của vị tỷ-kheo tên (như
vầy).
Vị ấy nên được nói rằng:
- Đại đức thấy được (tội) không?
-Thưa có, tôi thấy được.
- Đại đức hãy thu thúc trong tương lai.
Này các tỷ-kheo, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải quyết. Được
giải quyết nhờ vào điều gì? Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và việc
phán xử theo tội đã được thừa nhận. Và ở đây, điều gì trong cách hành xử Luật
với sự hiện diện? Sự hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện
diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự…(như trên)… Này các tỷ-kheo, khi đã được
giải quyết như thế, nếu vị ghi nhận (tội) khơi lại sự tranh tụng, vị khơi lại ấy
phạm tội ưng đối trị (pācittiya); nếu vị đã gởi sự thỏa thuận mà chỉ trích, vị
chỉ trích phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
[691] - Nếu sự tranh tụng liên quan đến tội không áp dụng được một
cách dàn xếp là việc phán xử theo tội đã được thừa nhận thì có thể làm yên ổn
theo hai cách dàn xếp là cách hành xử Luật với sự hiện diện và cách dùng cỏ che
lấp hay không?
Nên trả lời vị ấy rằng: "Có thể." Như vậy là như thế nào? Này các
tỷ-kheo, trong trường hợp này, các tỷ-kheo trong khi sinh hoạt đã nảy sinh các
sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và có nhiều việc không xứng là sa-môn
bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Ở đây, nếu các tỷ-kheo (nghĩ) như
vầy: "Chúng ta trong khi sinh hoạt đã nảy sinh các sự xung đột, gây gỗ, đưa
đến tranh cãi, và có nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động
đã được thực hiện. Nếu chúng ta lại gây ra cho nhau bằng các tội này, như thế
thì sự tranh tụng này có thể đưa đến lủng củng nội bộ, bất hòa nội bộ, và chia
rẽ?"
Và này các tỷ-kheo, nên giải quyết như vậy: Tất cả nên tụ họp lại một chỗ;
sau khi tụ họp lại, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm,
đủ năng lực:
- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh
hoạt đã nảy sinh các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và có nhiều việc
không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta
lại gây ra cho nhau bằng các tội này, như thế thì sự tranh tụng này có thể đưa
đến lủng củng nội bộ, bất hòa nội bộ, và chia rẽ. Nếu là thời điểm thích hợp cho
hội chúng, hội chúng nên giải quyết sự tranh tụng này bằng cách dùng cỏ che lấp,
ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có liên quan
đến cư sĩ.
Một vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực của các tỷ-kheo thuộc về cùng một
phe nên thông báo đến phe của mình rằng:
- Xin chư đại đức hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt đã nảy sinh
các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và có nhiều việc không xứng là
sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta lại gây ra cho
nhau bằng các tội này, như thế thì sự tranh tụng này có thể đưa đến lủng củng
nội bộ, bất hòa nội bộ, và chia rẽ. Nếu là thời điểm thích hợp cho chư đại đức,
tôi sẽ sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp tội của chư đại đức và tội của tôi
trước hội chúng chính vì sự lợi ích của chư đại đức và vì lợi ích của tôi, ngoại
trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư
sĩ.
[692] Khi ấy, một vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực của các
tỷ-kheo thuộc về phe kia nên thông báo đến phe của mình rằng:
- Xin chư đại đức hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt đã nảy sinh
các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và có nhiều việc không xứng là
sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta lại gây ra cho
nhau bằng các tội này, như thế thì sự tranh tụng này có thể đưa đến lủng củng
nội bộ, bất hòa nội bộ, và chia rẽ. Nếu là thời điểm thích hợp cho chư đại đức,
tôi sẽ sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp tội của chư đại đức và tội của tôi
trước hội chúng chính vì sự lợi ích của chư đại đức và vì lợi ích của tôi, ngoại
trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư
sĩ.
[693] Sau đó, hội chúng nên được thông báo bởi một vị tỷ-kheo có kinh
nghiệm, đủ năng lực của các tỷ-kheo thuộc về một phe rằng:
- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh
hoạt đã nảy sinh các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và có nhiều việc
không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta
lại gây ra cho nhau bằng các tội này, như thế thì sự tranh tụng này có thể đưa
đến lủng củng nội bộ, bất hòa nội bộ, và chia rẽ. Nếu là thời điểm thích hợp cho
hội chúng, tôi xin sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp tội của các đại đức ấy và
tội của tôi trước hội chúng chính vì sự lợi ích của các đại đức ấy và vì lợi ích
của tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có
liên quan đến cư sĩ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt
đã nảy sinh các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và có nhiều việc không
xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta lại gây
ra cho nhau bằng các tội này, như thế thì sự tranh tụng này có thể đưa đến lủng
củng nội bộ, bất hòa nội bộ, và chia rẽ. Chính vì sự lợi ích của các đại đức ấy
và vì lợi ích của tôi, tôi xin sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp tội của các đại
đức ấy và tội của tôi trước hội chúng, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng
và ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Đại đức nào thỏa thuận việc sám
hối bằng cách dùng cỏ che lấp các tội ấy của chúng tôi trước hội chúng, ngoại
trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư
sĩ, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.
Các tội ấy của chúng tôi đã được sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp trước hội
chúng, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có liên
quan đến cư sĩ. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự
việc này là như vậy.
Sau đó, hội chúng …(như trên)… thuộc về phe kia rằng: …(như trên)… tôi ghi
nhận sự việc này là như vậy.
Này các tỷ-kheo, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải quyết. Được
giải quyết nhờ vào điều gì? Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và cách
dùng cỏ che lấp. Và ở đây, điều gì trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? Sự
hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện
diện của nhân sự. Và ở đây, sự hiện diện của hội chúng là gì? Cần nhiều tỷ-kheo
có khả năng cho các hành sự và các vị ấy đã đi đến, sự tùy thuận của các vị xứng
đáng gởi sự tùy thuận đã được đem lại, trong khi hiện diện các vị không phản
đối; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của hội chúng. Và ở đây, sự hiện diện của
Pháp, sự hiện diện của Luật là gì? Pháp nào, Luật nào, lời giảng dạy nào của bậc
Đạo Sư giải quyết sự tranh tụng ấy; ở đây điều ấy là sự hiện diện của Pháp, là
sự hiện diện của Luật. Và ở đây, sự hiện diện của nhân sự là gì? Vị khai báo
(tội) và vị chứng minh vị ấy khai báo (tội), cả hai phe đều hiện diện; ở đây,
điều ấy là sự hiện diện của nhân sự. Và ở đây, điều gì là ở trong việc dùng cỏ
che lấp? Điều nào là sự thực hiện, sự hành động, sự đạt đến, sự thỏa thuận, sự
chấp nhận, sự không phủ nhận thuộc về hành sự dùng cỏ che lấp; ở đây điều ấy là
ở trong việc dùng cỏ che lấp. Này các tỷ-kheo, khi đã được giải quyết như thế,
nếu có vị làm khơi lại sự tranh tụng, vị khơi lại ấy phạm tội ưng đối trị
(pācittiya); nếu vị đã gởi sự thỏa thuận mà chỉ trích, vị chỉ trích phạm tội ưng
đối trị (pācittiya).
[694] Có bao nhiêu cách dàn xếp làm yên ổn một sự tranh tụng liên quan
đến nhiệm vụ?
Một sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ được lắng dịu bởi một cách dàn xếp:
bằng cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Dứt Chương Dàn Xếp là chương thứ tư.
-ooOoo-