TẠNG LUẬT
"Vinaya Pitaka" TIỂU PHẨM
"Cullavagga" Tỳ Kheo
Indachanda Nguyệt Thiên
Dịch |
TẠNG LUẬT - TIỂU PHẨM
TẬP II
XI. Chương Liên Quan Năm Trăm Vị
(Pañcasatikakkhandhakaṃ)
[614] Khi ấy, đại đức Mahākassapa đã nói
với các tỷ-kheo rằng:
- Này chư sư đệ, vào lúc ấy ta đang thực hiện cuộc hành trình đường xa từ
Pāvā đi Kusinārā cùng với đại chúng tỷ-kheo có số lượng năm trăm vị tỷ-kheo. Này
chư sư đệ, khi ấy, ta đã rời đường lộ đến ngồi ở một gốc cây. Vào lúc bấy giờ,
một đạo sĩ lõa thể nọ, sau khi nhận được hoa Mạn Đà La (Mandārava) ở Kusinārā,
đang thực hiện cuộc hành trình đường xa đi Pāvā. Này chư sư đệ, ta đã thấy vị
đạo sĩ lõa thể ấy đang đi đến từ đàng xa; thấy rồi, ta đã nói với vị đạo sĩ lõa
thể ấy điều này: "Này ông bạn, ông bạn có biết bậc Đạo Sư của chúng tôi không?"
"Ồ ông bạn, tôi biết. Hôm nay sa-môn Gotama đã Vô Dư Niết Bàn được bảy ngày
rồi. Do đó, tôi mới có được hoa Mạn Đà La này." Này chư sư đệ, tại nơi ấy,
những tỷ-kheo nào chưa đoạn tận ái dục thì một số đưa tay lên khóc lóc, một số
khuỵu chân ngã xuống lăn qua lăn lại: "Đức Thế Tôn Vô Dư Niết Bàn quá sớm,
đấng Thiện Thệ Vô Dư Niết Bàn quá sớm, bậc Trí Tuệ đã biến mất trên đời quá sớm."
Còn những tỷ-kheo đã đoạn tận ái dục thì có sự suy niệm và tỉnh táo thời chấp
nhận: "Các Pháp hữu vi là vô thường, nhưng sao chuyện ấy lại có thể xảy ra?"
Khi ấy, này các sư đệ, ta đã nói với các tỷ-kheo điều này: "Này chư sư đệ, đủ
rồi, chớ có buồn rầu, chớ có than vãn nữa. Này chư sư đệ, không phải đức Thế Tôn
thường nhấn mạnh khi nói đến điều ấy sao? Bởi vì chính ngay tất cả các vật thân
yêu vừa ý đều có bản chất đa dạng, có bản chất không thật, và có bản chất thay
đổi. Do đâu có được điều ấy? Này chư sư đệ, ở đây điều có thể xảy ra là vật gì
sanh lên, được tồn tại, thay đổi, và thuận theo pháp thế gian, (nếu nghĩ rằng):
‘Mong sao vật ấy chớ có bị hư hoại;’ sự kiện này không thể có được!" Này chư
sư đệ, vào lúc bấy giờ, có vị xuất gia lúc đã già tên Subhadda đang ngồi trong
tập thể ấy. Này chư sư đệ, khi ấy vị xuất gia lúc đã già Subhadda đã nói với các
tỷ-kheo ấy rằng: "Này các vị, đủ rồi, chớ có buồn rầu, chớ có than vãn nữa.
Chúng ta được hoàn toàn tự do rồi, chúng ta đã bị làm khó khăn bởi vị đại sa-môn
ấy (khi vị đại sa-môn ấy nói rằng): ‘Điều này thích hợp cho các ngươi, điều này
không thích hợp cho các ngươi.’ Giờ đây, điều gì chúng ta thích chúng ta sẽ làm
điều ấy, điều gì chúng ta không thích chúng ta sẽ không làm điều ấy." Này
chư sư đệ, vậy chúng ta hãy trùng tụng Pháp và Luật trước khi điều phi Pháp phát
triển và Pháp bị bỏ quên, trước khi điều phi Luật phát triển và Luật bị bỏ quên,
trước khi những kẻ nói về phi Pháp phát triển mạnh và những người nói về Pháp
yếu đi, trước khi những kẻ nói về phi Luật phát triển mạnh và những người nói về
Luật yếu đi.
[615] - Bạch ngài, như vậy xin vị trưởng lão hãy chọn ra các tỷ-kheo.
Khi ấy, đại đức Mahākassapa đã chọn ra bốn trăm chín mươi chín vị A La Hán.
Các vị tỷ-kheo đã nói với đại đức Mahākassapa rằng:
- Bạch ngài, vị đại đức Ānanda này tuy còn là bậc hữu học nhưng không bị chi
phối bởi tham, sân, si mê, sợ hãi. Và vị này thuộc lòng nhiều Pháp và Luật từ
đức Thế Tôn. Bạch ngài, như vậy xin vị trưởng lão hãy chọn đại đức Ānanda.
Rồi đại đức Mahākassapa đã chọn luôn đại đức Ānanda nữa.
Sau đó, các vị trưởng lão tỷ-kheo đã khởi ý rằng:
- Nhưng chúng ta có thể trùng tụng Pháp và Luật ở nơi nào?
Khi ấy, các vị trưởng lão tỷ-kheo đã khởi ý rằng:
- Thành Rājagaha đúng là nơi vật thực dồi dào và có nhiều chỗ trú ngụ; như
vậy, chúng ta có thể trùng tụng Pháp và Luật trong khi an cư mùa mưa ở Rājagaha,
các tỷ-kheo khác không được đi đến an cư mùa mưa ở thành Rājagaha.
Khi ấy, đại đức Mahākassapa đã thông báo đến hội chúng rằng:
- Này chư sư đệ, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp
cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định năm trăm vị tỷ-kheo này trùng tụng Pháp và
Luật trong khi an cư mùa mưa ở thành Rājagaha và "Các tỷ-kheo khác không được
an cư mùa mưa trong thành Rājagaha." Đây là lời đề nghị.
Này chư sư đệ, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Năm trăm tỷ-kheo này được chỉ
định trùng tụng Pháp và Luật trong khi an cư mùa mưa ở thành Rājagaha và "Các
tỷ-kheo khác không được an cư mùa mưa trong thành Rājagaha." Vị nào
thỏa thuận với việc chỉ định năm trăm tỷ-kheo này trùng tụng Pháp và Luật trong
khi an cư mùa mưa ở thành Rājagaha và "Các tỷ-kheo khác không được an
cư mùa mưa trong thành Rājagaha," xin im lặng; vị nào không đồng ý, có thể
nói lên.
Năm trăm tỷ-kheo này đã được hội chúng chỉ định trùng tụng Pháp và Luật trong
khi an cư mùa mưa ở thành Rājagaha, và "Các tỷ-kheo khác không được an cư mùa
mưa trong thành Rājagaha." Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng,
tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
[616] Sau đó, các tỷ-kheo trưởng lão đã đi đến thành Rājagaha để trùng
tụng Pháp và Luật. Khi ấy, các tỷ-kheo trưởng lão đã khởi ý rằng:
- Này chư sư đệ, việc sửa chữa những nơi bị hư hỏng đã được đức Thế Tôn khen
ngợi. Này các sư đệ, vào tháng thứ nhất chúng ta hãy sửa chữa những nơi bị hư
hỏng; vào tháng giữa, chúng ta sẽ tụ họp lại rồi trùng tụng Pháp và Luật.
Rồi vào tháng thứ nhất, các tỷ-kheo trưởng lão đã sửa chữa những nơi bị hư
hỏng.
[617] Khi ấy, đại đức Ānanda (nghĩ rằng): "Ngày mai là đại hội, ta
không thể ở trong tình trạng này, bởi vì ta còn là bậc hữu học làm sao có thể đi
đến đại hội được?" rồi đã trải qua trọn đêm với niệm trú ở thân cho đến lúc
rạng đông (mới khởi ý rằng): "Ta sẽ nằm xuống" rồi nghiêng thân hình. Vào
lúc đầu chưa chạm gối, hai chân vừa mới giở lên khỏi mặt đất, và trong khoảng
thời gian ấy, tâm đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc không còn chấp thủ. Rồi
đại đức Ānanda đã đi đến đại hội với tư cách là vị A La Hán.
[618] Khi ấy, đại đức Mahākassapa đã thông báo đến hội chúng rằng:
- Này chư sư đệ, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp
cho hội chúng, tôi sẽ hỏi Upāli về Luật.
Đại đức Upāli đã thông báo đến hội chúng rằng:
- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp
cho hội chúng, khi được đại đức Mahākassapa hỏi về Luật tôi sẽ trả lời.
Rồi đại đức Mahākassapa đã hỏi đại đức Upāli điều này:
- Này sư đệ Upāli, điều Bất cộng trụ (pārājika) thứ nhất đã được quy định ở
đâu?
- Bạch ngài ở Vesālī.
- Liên quan đến ai?
- Liên quan đến Sudinna con trai của Kalanda.
- Về sự việc gì?
- Về việc hành dâm.
Rồi đại đức Mahākassapa đã hỏi đại đức Upāli về câu chuyện, đã hỏi về nguyên
do, đã hỏi về nhân sự, đã hỏi về sự quy định, đã hỏi về sự quy định thêm, đã hỏi
về sự phạm tội, và đã hỏi về sự không phạm tội của điều pārājika thứ nhất.
- Này sư đệ Upāli, điều pārājika thứ hai đã được quy định ở đâu?
- Bạch ngài ở Rājagaha.
- Liên quan đến ai?
- Liên quan đến Dhaniya con trai người thợ đồ gốm.
- Về sự việc gì?
- Về việc lấy vật không được cho.
Rồi đại đức Mahākassapa đã hỏi đại đức Upāli về câu chuyện, đã hỏi về nguyên
do, đã hỏi về nhân sự, đã hỏi về sự quy định, đã hỏi về sự quy định thêm, đã hỏi
về sự phạm tội, và đã hỏi về sự không phạm tội của điều pārājika thứ hai.
- Này sư đệ Upāli, điều pārājika thứ ba đã được quy định ở đâu?
- Bạch ngài ở Vesālī.
- Liên quan đến ai?
- Liên quan đến nhiều vị tỷ-kheo.
- Về sự việc gì?
- Về việc tước đoạt mạng người.
Rồi đại đức Mahākassapa đã hỏi đại đức Upāli về câu chuyện, đã hỏi về nguyên
do, đã hỏi về nhân sự, đã hỏi về sự quy định, đã hỏi về sự quy định thêm, đã hỏi
về sự phạm tội, và đã hỏi về sự không phạm tội của điều pārājika thứ ba.
- Này sư đệ Upāli, điều pārājika thứ tư đã được quy định ở đâu?
- Bạch ngài ở Vesālī.
- Liên quan đến ai?
- Liên quan đến các tỷ-kheo ở bờ sông Vaggumudā.
- Về sự việc gì?
- Về pháp của bậc cao nhân.
Rồi đại đức Mahākassapa đã hỏi đại đức Upāli về câu chuyện, đã hỏi về nguyên
do, đã hỏi về nhân sự, đã hỏi về sự quy định, đã hỏi về sự quy định thêm, đã hỏi
về sự phạm tội, và đã hỏi về sự không phạm tội của điều pārājika thứ tư.
Bằng chính phương thức ấy, đại đức Mahākassapa đã hỏi về phần Luật của cả hai
phái (tỷ-kheo và tỷ-kheo ni). Đại đức Upāli đã trả lời mỗi khi được hỏi.
[619] Khi ấy, đại đức Mahākassapa đã thông báo đến hội chúng rằng:
- Này chư sư đệ, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp
cho hội chúng, tôi sẽ hỏi Ānanda về Pháp.
Đại đức Ānanda đã thông báo đến hội chúng rằng:
- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp
cho hội chúng, khi được đại đức Mahākassapa hỏi về Pháp tôi sẽ trả lời.
Rồi đại đức Mahākassapa đã hỏi đại đức Ānanda điều này:
- Này sư đệ Ānanda, kinh Phạm Võng (Brahmajāla) đã được thuyết ở đâu?
- Bạch ngài, ở nhà nghỉ của vua tại Ambalaṭṭhikā, ở khoảng giữa Rājagaha và
Nālanda.
- Liên quan đến ai?
- Đến du sĩ ngoại đạo Suppiya và thanh niên Brahmadatta.
Rồi đại đức Mahākassapa đã hỏi đại đức Ānanda về duyên khởi, đã hỏi về nhân
sự của kinh Brahmajāla.
- Này sư đệ Ānanda, kinh Sa Môn Quả (Sāmaññaphala) đã được thuyết ở đâu?
- Bạch ngài, ở Rājagaha nơi vườn xoài của Jīvaka.
- Với ai?
- Với Ajātasattu con trai của Videhi.
Rồi đại đức Mahākassapa đã hỏi đại đức Ānanda về duyên khởi, đã hỏi về nhân
sự của kinh Sāmaññaphala.
Bằng phương thức ấy, đại đức Mahākassapa đã hỏi về năm bộ kinh (nikāya). Đại
đức Ānanda đã trả lời mỗi khi được hỏi.
[620] Khi ấy, đại đức Ānanda đã nói với các tỷ-kheo trưởng lão điều
này:
- Bạch các ngài, vào thời điểm Vô Dư Niết Bàn đức Thế Tôn có nói với tôi như
vầy: "Này Ānanda, khi ta không còn, nếu muốn hội chúng có thể bỏ đi các điều
học nhỏ nhặt và ít quan trọng."
- Này sư đệ Ānanda, ngươi có hỏi đức Thế Tôn: "Bạch ngài, các điều học nào
là điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng?" không?
- Bạch các ngài, tôi không có hỏi đức Thế Tôn: "Bạch ngài, các điều học
nào là điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng?"
Một số trưởng lão nói như vầy:
- Giữ lại bốn điều Bất cộng trụ (Pārājika), các điều còn lại là các điều học
nhỏ nhặt và ít quan trọng.
Một số trưởng lão nói như vầy:
- Giữ lại bốn điều Bất cộng trụ (Pārājika), giữ lại mười ba điều Tăng tàng
(Saṅghādisesa), các điều còn lại là các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng.
Một số trưởng lão nói như vầy:
- Giữ lại bốn điều Bất cộng trụ (Pārājika), giữ lại mười ba điều Tăng tàng
(Saṅghādisesa), giữ lại hai điều Bất định (Aniyata), các điều còn lại là các
điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng.
Một số trưởng lão nói như vầy:
- Giữ lại bốn điều Bất cộng trụ (Pārājika), giữ lại mười ba điều Tăng tàng
(Saṅghādisesa), giữ lại hai điều Bất định (Aniyata), giữ lại ba mươi điều Ưng xả
đối trị (Nissaggiya Pācittiya), các điều còn lại là các điều học nhỏ nhặt và ít
quan trọng.
Một số trưởng lão nói như vầy:
- Giữ lại bốn điều Bất cộng trụ (Pārājika), giữ lại mười ba điều Tăng tàng
(Saṅghādisesa), giữ lại hai điều Bất định (Aniyata), giữ lại ba mươi điều (Ưng
xả đối trị (Nissaggiya Pācittiya), giữ lại chín mươi hai điều Ưng đối trị
(Pācittiya), các điều còn lại là các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng.
Một số trưởng lão nói như vầy:
- Giữ lại bốn điều Bất cộng trụ (Pārājika), giữ lại mười ba điều Tăng tàng
(Saṅghādisesa), giữ lại hai điều Bất định (Aniyata), giữ lại ba mươi điều (Ưng
xả đối trị (Nissaggiya Pācittiya), giữ lại chín mươi hai điều Ưng đối trị
(Pācittiya), giữ lại bốn điều Ưng phát Lộ (Pāṭidesanīya), các điều còn lại là
các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng.
[621] Khi ấy, đại đức Mahākassapa đã thông báo đến hội chúng rằng:
- Này chư sư đệ, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Có một số điều học của
chúng ta có liên quan đến hàng tại gia và hàng tại gia cũng biết rằng: "Điều
này là được phép đối với các sa-môn Thích tử chúng ta, điều này là không được
phép." Nếu chúng ta bỏ đi các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng, sẽ có
những người nói rằng: "Sa-môn Gotama chỉ quy định các điều học cho các đệ tử
đến lúc người được hoả táng. Khi mà bậc đạo sư của họ còn tồn tại thì khi ấy họ
còn học tập các điều học. Bởi vì bậc đạo sư của họ đã Vô Dư Niết Bàn nên giờ đây
họ không còn học tập các điều học nữa." Nếu là thời điểm thích hợp cho hội
chúng, hội chúng không nên quy định thêm những điều chưa được quy định và không
nên bỏ đi những điều đã được quy định, hội chúng nên thọ trì và thực hành các
điều học theo như đã được quy định. Đây là lời đề nghị.
Này chư sư đệ, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Có một số điều học của chúng
ta có liên quan đến hàng tại gia. Hàng tại gia cũng biết rằng: "Điều này là
được phép đối với các sa-môn Thích tử chúng ta, điều này là không được phép."
Nếu chúng ta bỏ đi các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng, sẽ có những người nói
rằng: "Sa-môn Gotama chỉ quy định các điều học cho các đệ tử đến lúc người
được hoả táng. Khi mà bậc đạo sư của họ còn tồn tại thì khi ấy họ đã học tập các
điều học. Bởi vì bậc đạo sư của họ đã Vô Dư Niết Bàn nên giờ đây họ không còn
học tập các điều học nữa." Hội chúng không quy định thêm những điều chưa
được quy định và không bỏ đi những điều đã được quy định, hội chúng thọ trì và
thực hành các điều học theo như đã được quy định. Vị nào thỏa thuận với việc
không quy định thêm những điều chưa được quy định, việc không bỏ đi những điều
đã được quy định, việc thọ trì và thực hành các điều học theo như đã được quy
định, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.
Hội chúng không quy định thêm những điều chưa được quy định và không bỏ đi
những điều đã được quy định, hội chúng thọ trì và thực hành các điều học theo
như đã được quy định. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi
nhận sự việc này là như vậy.
[622] Khi ấy, các tỷ-kheo trưởng lão đã nói với đại đức Ānanda như
vầy:
- Này sư đệ Ānanda, đây là tội tác ác (dukkaṭa) cho ngươi vì ngươi không hỏi
đức Thế Tôn rằng: "Bạch ngài, các điều học nào là các điều học nhỏ nhặt và ít
quan trọng?" Ngươi hãy sám hối tội tác ác (dukkaṭa) ấy.
- Bạch các ngài, vì không lưu ý nên tôi đã không hỏi đức Thế Tôn rằng: "Bạch
ngài, các điều học nào là các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng?" Tôi không
thấy được điều ấy là tội tác ác (dukkaṭa), nhưng vì niềm tin với các đại đức nên
tôi xin sám hối tội tác ác (dukkaṭa) ấy.
- Này sư đệ Ānanda, đây là một tội tác ác (dukkaṭa) cho ngươi nữa vì ngươi đã
đạp lên y tắm mưa của đức Thế Tôn rồi khâu nó. Ngươi hãy sám hối tội tác ác
(dukkaṭa) ấy.
- Bạch các ngài, không phải vì thiếu kính trọng mà tôi đã đạp lên y tắm mưa
của đức Thế Tôn rồi khâu nó. Tôi không thấy được điều ấy là tội tác ác
(dukkaṭa), nhưng vì niềm tin với các đại đức nên tôi xin sám hối tội tác ác
(dukkaṭa) ấy.
- Này sư đệ Ānanda, đây là một tội tác ác (dukkaṭa) cho ngươi nữa vì ngươi đã
cho phép phụ nữ đảnh lễ nhục thân của đức Thế Tôn trước tiên; trong khi họ khóc
lóc nhục thân của đức Thế Tôn đã bị lấm lem bởi nước mắt. Ngươi hãy sám hối tội
tác ác (dukkaṭa) ấy.
- Bạch các ngài, (nghĩ rằng): "Những người nữ này không nên ở lại vào ban
đêm," nên tôi đã cho phép phụ nữ đảnh lễ nhục thân của đức Thế Tôn trước
tiên. Tôi không thấy được điều ấy là tội tác ác (dukkaṭa), nhưng vì niềm tin với
các đại đức nên tôi xin sám hối tội tác ác (dukkaṭa) ấy.
- Này sư đệ Ānanda, đây là một tội tác ác (dukkaṭa) cho ngươi nữa bởi vì
trong khi đức Thế Tôn ra dấu hiệu rõ ràng, làm biểu hiện rõ rệt, ngươi lại không
cầu khẩn đức Thế Tôn rằng: "Xin đức Thế Tôn hãy tồn tại một kiếp, xin đấng
Thiện Thệ hãy tồn tại một kiếp vì sự lợi ích cho nhiều người, vì sự an lạc cho
nhiều người, vì lòng bi mẫn đối với thế gian, vì sự tấn hoá, sự lợi ích, sự an
lạc của chư thiên và nhân loại." Ngươi hãy sám hối tội tác ác (dukkaṭa) ấy.
- Bạch các ngài, vì tâm đã bị Ác ma ám ảnh nên tôi đã không cầu khẩn đức Thế
Tôn rằng: "Xin đức Thế Tôn Tôn hãy tồn tại một kiếp, xin đấng Thiện Thệ Tôn
hãy tồn tại một kiếp vì sự lợi ích cho nhiều người, vì sự an lạc cho nhiều
người, vì lòng bi mẫn đối với thế gian, vì sự tấn hoá, sự lợi ích, sự an lạc của
chư thiên và nhân loại." Tôi không thấy được điều ấy là tội tác ác
(dukkaṭa), nhưng vì niềm tin với các đại đức nên tôi xin sám hối tội tác ác
(dukkaṭa) ấy.
- Này sư đệ Ānanda, đây là một tội tác ác (dukkaṭa) cho ngươi nữa vì ngươi đã
nỗ lực làm cho sự xuất gia của phụ nữ trong Pháp và Luật này được tuyên bố bởi
đức Thế Tôn. Ngươi hãy sám hối tội tác ác (dukkaṭa) ấy.
- Bạch các ngài, (nghĩ rằng): "Bà Mahāpajāpati Gotamī này là dì ruột của
đức Thế Tôn, là người chăm sóc, là người nuôi dưỡng, là người cho sữa, bà đã cho
đức Thế Tôn bú sữa khi người mẹ ruột qua đời," nên tôi đã nỗ lực làm cho sự
xuất gia của phụ nữ trong Pháp và Luật này được tuyên bố bởi đức Thế Tôn. Tôi
không thấy được điều ấy là tội tác ác (dukkaṭa), nhưng vì niềm tin với các đại
đức nên tôi xin sám hối tội tác ác (dukkaṭa) ấy.
[623] Vào lúc bấy giờ, đại đức Purāṇa đi du hành ở ngọn núi ở phía nam
cùng với đại chúng tỷ-kheo có số lượng năm trăm vị tỷ-kheo. Khi ấy, trong lúc
Pháp và Luật đang được các tỷ-kheo trưởng lão trùng tụng, còn đại đức Purāṇa sau
khi đã trú ở ngọn núi ở phía nam theo như ý thích rồi đã đi đến Rājagaha, Trúc
Lâm (Veluvana), nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vị ấy đã đi đến gặp các tỷ-kheo
trưởng lão; sau khi đến, đã thân thiện chào hỏi các tỷ-kheo trưởng lão rồi ngồi
xuống một bên. Các tỷ-kheo trưởng lão đã nói với đại đức Purāṇa đang ngồi một
bên như vầy:
- Này sư đệ Purāṇa, Pháp và Luật đã được các vị trưởng lão trùng tụng. Ngươi
hãy hành theo sự trùng tụng ấy.
- Này các vị, Pháp và Luật đã được các vị trưởng lão trùng tụng một cách tốt
đẹp. Tuy nhiên, tôi chỉ ghi nhận chính những gì tôi đã được nghe từ miệng và đã
được thọ lãnh từ miệng của đức Thế Tôn thôi.
[624] Khi ấy, đại đức Ānanda đã nói với các vị trưởng lão tỷ-kheo
rằng:
- Bạch các ngài, vào thời điểm Vô Dư Niết Bàn đức Thế Tôn có nói với tôi như
vầy: "Này Ānanda, như vậy thì khi ta không còn, hội chúng hãy áp đặt hình
phạt Brahma đối với tỷ-kheo Channa."
- Này sư đệ Ānanda, vậy ngươi có hỏi đức Thế Tôn: "Bạch ngài, hình phạt
Brahma là như thế nào?" không?
- Bạch các ngài, thật sự tôi có hỏi đức Thế Tôn: "Bạch ngài, hình phạt
Brahma là như thế nào?" "Này Ānanda, tỷ-kheo Channa muốn điều gì thì có
thể nói điều ấy, còn các tỷ-kheo thì không được nói chuyện, không được nhắc nhở,
không được chỉ dạy tỷ-kheo Channa."
- Này sư đệ Ānanda, nếu vậy thì đích thân sư đệ hãy áp đặt hình phạt Brahma
đối với tỷ-kheo Channa.
- Bạch các ngài, tỷ-kheo Channa nóng nảy và thô lỗ, làm thế nào tôi áp đặt
hình phạt Brahma đối với vị tỷ-kheo ấy được?
- Này sư đệ Ānanda, như vậy thì hãy cùng đi với nhiều vị tỷ-kheo.
- Xin vâng, bạch các ngài.
Rồi đại đức Ānanda ngheo theo các tỷ-kheo trưởng lão đã cùng với đại chúng
tỷ-kheo có số lượng năm trăm tỷ-kheo đáp thuyền ngược giòng nước đi Kosambī. Sau
khi rời thuyền, đại đức Ānanda đã ngồi nghỉ ở một gốc cây không xa vườn thượng
uyển của đức vua Udena.
[625] Vào lúc bấy giờ, đức vua Udena ngự tại vườn thượng uyển cùng với
đám hầu thiếp tuỳ tùng. Đám hầu thiếp của đức vua Udena đã nghe được rằng: "Nghe
nói giáo thọ sư của chúng ta là ngài Ānanda đang ngồi nghỉ ở một gốc cây không
xa vườn thượng uyển lắm." Khi ấy, đám hầu thiếp của đức vua Udena đã tâu với
đức vua Udena điều này:
- Tâu chúa thượng, nghe nói giáo thọ sư của chúng tôi là ngài Ānanda đang
ngồi nghỉ ở một gốc cây không xa vườn thượng uyển lắm. Tâu chúa thượng, chúng
tôi muốn viếng thăm ngài Ānanda.
- Như vậy thì các ngươi hãy thăm viếng sa-môn Ānanda đi.
Khi ấy, đám hầu thiếp của đức vua Udena đã đi đến gặp đại đức Ānanda, sau khi
đến đã đảnh lễ đại đức Ānanda rồi ngồi xuống một bên. Khi ấy, đại đức Ānanda
bằng bài Pháp thoại đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi
cho đám hầu thiếp của đức vua Udena đang ngồi một bên. Rồi đám hầu thiếp của đức
vua Udena, sau khi đã được đại đức Ānanda chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và
tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, đã dâng lên đại đức Ānanda năm trăm
thượng y. Sau khi đã được hài lòng và hoan hỷ với lời dạy của đại đức Ānanda,
đám hầu thiếp của đức vua Udena đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đại đức Ānanda,
hướng vai phải nhiễu quanh, rồi trở về lại bên đức vua Udena.
[626] Khi ấy, đức vua Udena đã thấy đám hầu thiếp đang đi lại từ đàng
xa. Khi gặp lại, đức vua đã hỏi đám hầu thiếp điều này:
- Thế các ái khanh có viếng thăm sa-môn Ānanda không vậy?
- Tâu chúa thượng, các thần thiếp đã có viếng thăm ngài Ānanda.
- Thế các ái khanh có dâng vật gì cho sa-môn Ānanda không vậy?
- Tâu chúa thượng, các thần thiếp đã dâng cho ngài Ānanda năm trăm thượng y.
Đức vua Udena đã phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao sa-môn Ānanda lại thọ lãnh quá nhiều y như vậy? Không lẽ sa-môn
Ānanda sẽ làm thương buôn vải hay bày ra sạp tơ lụa đây?
Sau đó, đức vua Udena đã đi đến gặp đại đức Ānanda; sau khi đến, đã bày tỏ sự
thân thiện với đại đức Ānanda, sau khi trao đổi lời chào hỏi xã giao thân thiện
rồi đã ngồi xuống một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đức vua Udena đã nói với
đại đức Ānanda rằng:
- Này đại đức Ānanda, đám hầu thiếp của chúng tôi đã đến đây chưa?
- Tâu đại vương, đám hầu thiếp của ngài đã có đến đây.
- Vậy chớ họ có dâng gì đến ngài Ānanda không?
- Tâu đại vương, họ có dâng đến tôi năm trăm thượng y.
- Vậy chớ ngài Ānanda sẽ làm gì với nhiều y đến thế?
- Tâu đại vương, tôi sẽ chia sẻ với các tỷ-kheo có y bị tàn tạ.
- Vậy chớ ngài Ānanda sẽ làm gì với những y ấy khi chúng bị cũ và tàn tạ đi?
- Tâu đại vương, tôi sẽ dùng chúng làm khăn trải.
- Vậy chớ ngài Ānanda sẽ làm gì với những khăn trải ấy khi chúng bị cũ đi?
- Tâu đại vương, tôi sẽ dùng chúng làm vải bọc nệm.
- Vậy chớ ngài Ānanda sẽ làm gì với những vải bọc nệm ấy khi chúng bị cũ đi?
- Tâu đại vương, tôi sẽ dùng chúng làm thảm lót sàn.
- Vậy chớ ngài Ānanda sẽ làm gì với những thảm lót sàn ấy khi chúng bị cũ đi?
- Tâu đại vương, tôi sẽ dùng chúng làm giẻ chùi chân.
- Vậy chớ ngài Ānanda sẽ làm gì với những giẻ chùi chân ấy khi chúng bị cũ
đi?
- Tâu đại vương, tôi sẽ dùng chúng làm giẻ lau bụi.
- Vậy chớ ngài Ānanda sẽ làm gì với những giẻ lau bụi ấy khi chúng bị cũ đi?
- Tâu đại vương, tôi sẽ cắt chúng ra trộn với bùn đất rồi trét làm nền.
Khi ấy đức vua Udena (khởi ý rằng): "Tất cả các sa-môn Thích tử này xử sự
hợp lý, không phung phí kiểu trưởng giả," rồi đã dâng lên đại đức Ānanda năm
trăm xấp vải y khác nữa. Như vậy, đây là lần đầu tiên y cúng dường được phát
sanh đến đại đức Ānanda một ngàn bộ.
[627] Sau đó, đại đức Ānanda đã đi đến tu viện Ghosita, đến rồi đã
ngồi ở chỗ ngồi đã được xếp đặt sẵn. Khi ấy, đại đức Channa đã đi đến gặp đại
đức Ānanda, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Ānanda rồi ngồi xuống một bên. Khi
ấy, đại đức Ānanda đã nói với đại đức Channa đang ngồi một bên rằng:
- Này sư đệ Channa, hội chúng đã áp đặt hình phạt Brahma đối với sư đệ.
- Bạch huynh Ānanda, vậy chớ hình phạt Brahma được áp đặt như thế nào?
- Này sư đệ Channa, sư đệ muốn điều gì với các tỷ-kheo thì có thể nói điều
ấy. Nhưng các tỷ-kheo sẽ không được nói chuyện, không được nhắc nhở, không được
chỉ dạy sư đệ nữa.
- Bạch sư huynh Ānanda, như vậy thì đâu khác gì giết chết sư đệ, bởi vì các
tỷ-kheo không được nói chuyện, không được nhắc nhở, không được chỉ dạy sư đệ
nữa.
Và đại đức Channa đã ngất xỉu té ngã ngay tại chỗ ấy.
Rồi đại đức Channa trở nên buồn rầu, xấu hổ, hối hận bởi hình phạt Brahma,
rồi tách riêng một mình, và sống không lười biếng, nỗ lực, quyết tâm nên chẳng
bao lâu sau, ngay trong kiếp hiện tại này, đã tự mình nhận thức, chứng đạt, và
an trú vào thắng trí, mục đích tối thượng của phạm hạnh, vì mục đích này mà
những người con trai của các gia đình cao quý rời nhà xuất gia một cách chân
chánh sống không nhà. Vị ấy biết rằng: "Sự tái sanh đã tận, phạm hạnh đã
thành, các việc cần làm đã làm, từ bỏ thân này không còn thân khác nữa." Và
thêm một vị nữa là đại đức Channa đã thể nhập trạng thái A La Hán.
Sau khi chứng đạt trạng thái A La Hán, đại đức Channa đã đi đến gặp đại đức
Ānanda, đến rồi đã nói với đại đức Ānanda điều này:
- Bạch sư huynh Ānanda, hôm nay xin hãy thu hồi hình phạt Brahma cho đệ.
- Này sư đệ Channa, kể từ khi sư đệ chứng đạt quả vị A La Hán, kể từ thời
điểm ấy hình phạt Brahma đã hết hiệu lực đối với sư đệ.
[628] Trong cuộc kết tập về Luật này đã có năm trăm vị tỷ-kheo hiện
diện, không thiếu một cũng không hơn. Do đó, cuộc kết tập về Luật này được gọi
là
"Liên quan năm trăm vị."
Dứt Chương Liên Quan Năm Trăm Vị là chương thứ mười một.
Trong chương này gồm có hai mươi ba sự kiện.
Tóm Lược Chương này:
[629]
Bởi vì đấng Toàn Giác
chứng Vô Dư Niết Bàn,
và có vị trưởng lão
tên là Kassapa,
nói với nhóm tỷ-kheo
việc bảo vệ chánh Pháp,
trên đường từ Pāvā,
điều đã được nói lên
bởi vị Subhadda.
Chúng ta hãy trùng tụng
về Chánh Pháp trước khi
phi Pháp phát triển mạnh.
Năm trăm còn thiếu một,
vị ấy chọn A nan,
cuộc kết tậpPháp, Luật,
cư trú hang hạng nhất.
Vị ấy hỏi về Luật
đến vị Upāli,
vị ấy hỏi về Kinh
đến bậc trí A nan,
đệ tử bậc Chiến Thắng
các vị đã tiến hành
việc kết tập Tam Tạng.
Các điều học nhỏ nhặt,
ít quan trọng, nhiều loại,
hành như đã quy định.
Không hỏi, đạp lên trên,
cho đảnh lễ, không xin,
việc xuất gia người nữ,
các tác ác của tôi
vì niềm tin (nên nhận).
Rồi vị Purāna
và hình phạt Brahma,
hầu thiếp Udena,
quá nhiều, và hư hoại,
khăn trải, và bọc nệm,
thảm lót, giẻ chùi chân,
lau bụi, nhồi với đất,
vị ấy được phát sanh
một ngàn y lần đầu
tên gọi Ānanda.
Sợ hành phạt Brahma,
đạt được bốn Chân Lý.
Năm trăm được tuyển chọn,
nên gọi "Năm Trăm Vị."
-ooOoo-