TẠNG LUẬT
"Vinaya Pitaka" TIỂU PHẨM
"Cullavagga" Tỳ Kheo
Indachanda Nguyệt Thiên
Dịch |
TẠNG LUẬT - TIỂU PHẨM
TẬP II
Cung kỉnh đức Thế Tôn, bậc A La Hán, đấng
Chánh Biến Tri!
V. Chương Các Tiểu Sự (Khuddakavatthukkhandhakaṃ)
[1] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự
tại thành Vương Xá (Rājagaha), Trúc lâm (Veluvana), nơi nuôi dưỡng các con sóc.
Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư cọ xát thân mình, bắp chân, cánh tay,
ngực, và lưng vào thân cây trong lúc tắm. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai
rằng:
- Vì sao các sa-môn Thích-tử lại cọ xát thân mình, bắp chân, cánh tay, ngực,
và lưng vào thân cây trong lúc tắm, giống như những võ sĩ đấu vật và giới trẻ ở
thôn quê vậy?
Các tỷ-kheo đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Rồi
các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự kiện ấy lên đức Thế Tôn. Khi đó, đức Thế Tôn nhân
lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỷ-kheo lại hỏi rằng:
- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo thuộc nhóm Lục Sư cọ xát thân mình,
bắp chân, cánh tay, ngực, và lưng vào thân cây trong lúc tắm, có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỷ-kheo, việc làm của những kẻ đần độn ấy là không đúng đắn, không
hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, là sai trái, không nên làm. Này
các tỷ-kheo, tại sao những kẻ đần độn ấy lại cọ xát thân mình, bắp chân, cánh
tay, ngực, và lưng vào thân cây trong lúc tắm? Này các tỷ-kheo, sự việc này
không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo không nên cọ xát thân hình vào thân cây trong lúc
tắm. Vị nào cọ xát thì phạm tội tác ác (dukkata).
[2] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư cọ xát thân mình, bắp
chân, cánh tay, ngực, và lưng vào trụ đá trong lúc tắm. Dân chúng phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- Vì sao các sa-môn Thích-tử lại cọ xát thân mình, bắp chân, cánh tay, ngực,
và lưng vào trụ đá trong lúc tắm, giống như những võ sĩ đấu vật và giới trẻ ở
thôn quê vậy?
Các tỷ-kheo đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai.
…(như trên)… Rồi các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỷ-kheo, nghe nói ...(như trên)..., có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại thoại rồi bảo các tỷ-kheo
rằng:
- Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo không nên cọ xát thân hình vào trụ đá trong lúc
tắm. Nếu vị nào cọ xát thì phạm tội tác ác (dukkata).
[3] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư cọ xát thân mình, bắp
chân, cánh tay, ngực, và lưng vào tường nhà trong lúc tắm. Dân chúng phàn nàn,
phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các sa-môn Thích-tử lại cọ xát thân mình, bắp chân, cánh tay, ngực,
và lưng vào tường nhà trong lúc tắm, giống như những võ sĩ đấu vật và giới trẻ ở
thôn quê vậy?
…(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo không nên cọ xát thân hình vào tường nhà trong lúc
tắm. Nếu vị nào cọ xát thì phạm tội tác ác (dukkata).
[4] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục sư tắm ở trên một tấm phản
sần sùi (atthāne). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các tỷ-kheo đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai.
…(như trên) … Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
…(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, nghe nói ...(như trên)..., có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các
tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, không nên tắm ở trên một tấm phản sần sùi. Vị nào tắm thì
phạm tội tác ác (dukkata).
[5] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư tắm với cây kỳ cọ hình
giống bàn tay. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các tỷ-kheo đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai.
…(như trên)… Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
…(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên tắm với cây kỳ cọ hình giống bàn tay. Vị nào tắm
thì phạm tội tác ác (dukkata).
[6] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư tắm với chuổi hột chà
lưng (kuruvindakasutti). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên tắm với chuổi hột chà lưng. Vị nào tắm thì phạm
tội tác ác (dukkata).
[7] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư bảo vị khác làm sạch bằng
cách cọ xát lẫn nhau. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên bảo vị khác làm sạch bằng cách cọ xát lẫn nhau.
Vị nào bảo kẻ khác làm thì phạm tội tác ác (dukkata).
[8] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư tắm với cây chà lưng
(mallaka). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên tắm với cây chà lưng. Vị nào tắm thì phạm tội
tác ác (dukkata).
[9] Vào lúc bấy giờ, có tỷ-kheo bị bịnh ngoài da. Vị ấy không
được thoải mái khi không có cây chà lưng. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc
ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép vị bị bệnh dùng cây chà lưng chưa được chế
biến.
[10] Vào lúc bấy giờ, có tỷ-kheo già cả yếu đuối không thể tự kỳ cọ
trong khi tắm. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc việc dùng dây vải (ukkāsikaṃ).
[11] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ngần ngại lúc làm sạch phần lưng.
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép dùng tay như thường lệ.
[12] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đeo hoa tai …(như trên)…
đeo hoa tai dạng chuổi, đeo xâu chuỗi ở cổ, đeo xâu chuỗi ở hông, đeo vòng, đeo
vòng ở ngực, đeo vòng ở tay, đeo nhẫn ở ngón. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê
bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các tỷ-kheo đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai.
…(như trên)… Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
…(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đeo hoa tai …(như trên)…
đeo hoa tai dạng chuổi, đeo dây chuổi ở cổ, đeo dây chuổi ở hông, đeo vòng, đeo
vòng ở ngực, đeo vòng ở tay, đeo nhẫn ở ngón, có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các
tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, không nên đeo hoa tai, không nên đeo hoa tai dạng chuổi,
không nên đeo dây chuổi ở cổ, không nên đeo dây chuổi ở hông, không nên đeo
vòng, không nên đeo vòng ở ngực, không nên đeo vòng ở tay, không nên đeo nhẫn.
Vị nào đeo thì phạm tội tác ác (dukkata).
[13] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư để tóc dài. Dân chúng
phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên để tóc dài. Vị nào để (tóc dài) thì phạm tội tác
ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép (để tóc) hai tháng hoặc (để dài) hai
lóng tay.
[14] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư chải tóc bằng lược, chải
tóc bằng vật giống hình mang rắn, chải tóc bằng tay xoè ra, chải tóc với sáp
ong, chải tóc với dầu nước. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên chải tóc bằng lược, không nên chải tóc bằng vật
giống hình mang rắn, không nên chải tóc bằng tay xoè ra, không nên chải tóc với
sáp ong, không nên chải tóc với dầu nước. Vị nào chải tóc thì phạm tội tác ác
(dukkata).
[15] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư nhìn nét mặt ở gương
soi, ở trong chậu nước. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên nhìn nét mặt ở gương soi, ở trong chậu nước. Vị
nào nhìn thì phạm tội tác ác (dukkata).
[16] Vào lúc bấy giờ, một tỷ-kheo nọ có vết thương ở mặt. Vị ấy đã hỏi
các tỷ-kheo rằng:
- Các đại đức ơi, vết thương của tôi ra làm sao?
Các tỷ-kheo đã trả lời như sau:
- Này đại đức, vết thương của ngài là như thế đó.
Vị ấy không tin. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, do nhân duyên bệnh, ta cho phép nhìn nét mặt ở gương soi,
ở trong chậu nước.
[17] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư thoa dầu khuôn mặt, chà
xát khuôn mặt, thoa phấn khuôn mặt, tô điểm mặt bằng bột phấn đỏ, vẽ màu ở thân
thể, vẽ màu ở mặt, vẽ màu ở thân và mặt. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai
rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên thoa dầu khuôn mặt, không nên chà xát khuôn mặt,
không nên thoa phấn khuôn mặt, không nên tô điểm mặt bằng bột phấn đỏ, không nên
vẽ màu ở thân thể, không nên vẽ màu ở mặt, không nên vẽ màu ở thân và mặt. Vị
nào làm thì phạm tội tác ác (dukkata).
[18] Vào lúc bấy giờ, một tỷ-kheo nọ có bệnh ở mắt. Các vị đã trình sự
việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, do nhân duyên bệnh, ta cho phép thoa dầu khuôn mặt.
[19] Vào lúc bấy giờ, tại thành Vương Xá (Rājagaha) có lễ hội ở
trên đỉnh núi. Các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đã đi xem lễ hội ở trên đỉnh núi. Dân
chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các sa-môn Thích-tử lại đi xem ca vũ nhạc, giống như kẻ tại gia
hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đi xem ca vũ nhạc. Vị nào đi thì phạm tội tác ác
(dukkata).
[20] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư ngâm nga các bài Pháp
theo âm điệu ca hát với sự kéo dài. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các sa-môn Thích-tử này ngâm nga bài Pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo
dài cũng giống y như chúng ta ca hát vậy.
Các tỷ-kheo đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các
tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỷ-kheo nhóm Lục Sư lại ngâm nga bài Pháp theo âm điệu ca hát
với sự kéo dài?
Sau đó, các tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, nghe nói …(như trên)… có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
…(như trên)… Sau khi thuyết Pháp thoại, ngài đã bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, có năm điều bất lợi khi ngâm nga bài Pháp theo âm điệu ca
hát với sự kéo dài: Bản thân vị ấy say đắm trong âm điệu, những kẻ khác say đắm
trong âm điệu, hàng tại gia phiền não, trong khi cố tâm theo âm điệu thiền định
của vị ấy bị phân tán, điều cuối cùng là dân chúng có kiến thức sai trái. Này
các tỷ-kheo, đó năm điều bất lợi khi ngâm nga bài Pháp theo âm điệu ca hát với
sự kéo dài. Này các tỷ-kheo, không nên ngâm nga bài Pháp theo âm điệu ca hát với
sự kéo dài. Vị nào ngâm nga thì phạm tội tác ác (dukkata).
[21] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ngần ngại trong khi thuyết giảng với
giọng có âm điệu. Các vị đã trình sự việc lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc thuyết giảng với giọng có âm điệu.
[22] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư mặc áo choàng có phủ
lông ở phía ngoài. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên mặc áo choàng có phủ lông phía bên ngoài. Vị nào
mặc thì phạm tội tác ác (dukkata).
[23] Vào lúc bấy giờ, trong khu vườn của vua Seniya Bimbisāra
xứ Ma Kiệt Đà (Magadha), xoài đang ra trái. Vua Seniya Bimbisāra xứ Ma Kiệt Đà
(Magadha) đã cho phép rằng:
- Hãy để các tôn sư ăn xoài một cách thoải mái.
Các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đã hái luôn cả xoài non rồi ăn đi. Rồi vua Seniya
Bimbisāra xứ Ma Kiệt Đà (Magadha) muốn dùng xoài. Khi ấy, vua Seniya Bimbisāra
xứ Ma Kiệt Đà (Magadha) ra lệnh cho các tùy tùng rằng:
- Các khanh, hãy đi đến vườn và mang xoài lại.
- Xin vâng, tâu bệ hạ.
Rồi các tùy tùng nghe lệnh vua Seniya Bimbisāra xứ Ma Kiệt Đà (Magadha) đã đi
đến vườn và nói với người giữ vườn rằng:
- Này nhà ngươi, đức vua muốn dùng xoài, nhà ngươi hãy dâng xoài.
- Quý vị ơi, không còn xoài nữa. Các tỷ-kheo đã hái luôn cả xoài non và ăn
hết rồi.
Rồi các tùy tùng đã trình sự việc lên vua Seniya Bimbisāra xứ Ma Kiệt Đà
(Magadha).
- Này các khanh, xoài đã được các tôn sư thọ dụng ngon lành, tuy nhiên sự
tiết độ là điều đã được đức Thế Tôn ngợi khen cơ mà!
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các sa-môn Thích-tử không biết tiết độ lại ăn đi xoài của đức vua
vậy?
Các tỷ-kheo đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai.
…(như trên)… Rồi các tỷ-kheo ấy đã trình sự việc lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên ăn xoài. Vị nào ăn thì phạm tội tác ác
(dukkata).
[24] Vào lúc bấy giờ, một nhóm người khác đã dâng thức ăn đến hội
chúng. Các miếng xoài đã được trộn vào trong món xúp. Các tỷ-kheo ngần ngại
không thọ lãnh. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, hãy thọ lãnh và hãy thọ dụng. Này các tỷ-kheo, ta cho phép
(thọ dụng) xoài miếng.
[25] Vào lúc bấy giờ, một nhóm người khác đã dâng thức ăn đến hội
chúng. Họ đã không biết để làm xoài thành miếng. Ở phòng ăn, họ đã dâng các trái
xoài hãy còn nguyên vẹn. Các tỷ-kheo ngần ngại không thọ lãnh. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, hãy thọ lãnh và hãy thọ dụng. Này các tỷ-kheo, ta cho phép
thọ dụng trái cây đã được làm cho đúng phép sa-môn theo năm cách: đã được hoại
bởi lửa, đã được hoại bởi dao, đã được hoại bởi móng tay, không có hột, và cách
thứ năm là hột đã được lấy ra. Này các tỷ-kheo, ta cho phép thọ dụng trái cây đã
được làm cho đúng phép sa-môn theo năm cách này.
[26]Vào lúc bấy giờ, một vị tỷ-kheo bị rắn cắn và đã qua đời. Các vị
đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, chắc chắn là vị tỷ-kheo ấy đã không rải tâm từ đến bốn
loài rắn chúa rồi. Này các tỷ-kheo, bởi vì nếu vị tỷ-kheo ấy đã rải tâm từ đến
bốn loài rắn chúa rồi, này các tỷ-kheo, do điều ấy vị tỷ-kheo ấy dầu bị rắn cắn
cũng không thể chết được. Bốn loài rắn chúa ấy là gì? Loài rắn chúa Virūpakkha,
loài rắn chúa Erāpatha, loài rắn chúa Chabyāputta, loài rắn chúa Kanhāgotama.
Này các tỷ-kheo, chắc chắn là tỷ-kheo ấy đã không rải tâm từ đến bốn loài rắn
chúa này rồi. Này các tỷ-kheo, bởi vì nếu vị tỷ-kheo ấy đã rải tâm từ đến bốn
loài rắn chúa này rồi, này các tỷ-kheo, do điều này vị tỷ-kheo ấy dầu bị rắn cắn
cũng không thể chết được. Này các tỷ-kheo, ta cho phép rải tâm từ đến bốn loài
rắn chúa này nhằm mục đích gìn giữ bản thân, bảo vệ bản thân, và an toàn cho bản
thân. Này các tỷ-kheo, nên thực hành như vầy:
[27]
Tôi có tâm từ đối với Virūpakkha;
tôi có tâm từ đối với Erāpatha;
tôi có tâm từ đối với Chabyāputta;
và tôi có tâm từ đối với Kanhāgotamaka.
Tôi có tâm từ đối với loài không chân;
tôi có tâm từ đối với loài hai chân;
tôi có tâm từ đối với loài bốn chân;
tôi có tâm từ đối với loài nhiều chân.
Loài không chân đừng hãm hại tôi;
loài hai chân đừng hãm hại tôi;
loài bốn chân đừng hãm hại tôi;
loài nhiều chân đừng hãm hại tôi.
Hởi tất cả chúng sanh, tất cả sinh vật,
và tất cả mọi sanh linh,
xin tất cả hãy thấy được các điều lành,
chớ để điều gì xấu xa xảy đến.
Đức Phật là vô lượng,
đức Pháp là vô lượng,
đức Tăng là vô lượng,
các loài bò sát (như là)các loài rắn,
bọ cạp, rết, nhện, thằn lằn, chuột là có hạn lượng.
Tôi đã thực hiện các sự bảo vệ,
tôi đã thực hiện sự an toàn,
xin các sanh linh hãy tránh xa.
Giờ tôi đảnh lễ đức Thế Tôn,
đảnh lễ bảy vị Chánh Đẳng Giác.
[28] Vào lúc bấy giờ, có một tỷ-kheo bị quấy nhiễu bởi sự không được
thoải mái đã cắt đi dương vật. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, trong khi điều khác cần được đoạn trừ, kẻ rồ dại ấy lại
cắt đi vật khác. Này các tỷ-kheo, không nên cắt đi dương vật của bản thân. Vị
nào cắt thì phạm trọng tội (thullaccaya).
[29] Vào lúc bấy giờ, một nhà đại phú ở thành Vương Xá (Rājagaha) có
được một khúc gỗ đàn hương thuộc loại đàn hương rất quý giá. Khi ấy, nhà đại phú
thành Vương Xá (Rājagaha) đã khởi ý rằng:
- Để ta cho đẻo thành cái bình bát với khúc gỗ đàn hương này mới được. Phần
gỗ vụn sẽ là sở hữu của ta, còn cái bát ta sẽ cho đi làm quà biếu.
Rồi nhà đại phú thành Vương Xá (Rājagaha) đã cho đẻo thành cái bình bát với
khúc gỗ đàn hương ấy, buộc với một sợi dây, rồi bảo treo ở trên ngọn một cây
tre, xong buộc nhiều cây tre tiếp nối nhau, và nói như vầy:
- Sa-môn hoặc Bà La Môn (Brāhmana) nào chính là vị A La Hán và lại có thần
thông nữa thì hãy lấy quà biếu là cái bình bát xuống.
[30] Lúc bấy giờ, Pūrana Kassapa đã đi đến gặp nhà đại phú thành
Vương Xá (Rājagaha). Đến rồi mới nói với nhà đại phú thành Vương Xá (Rājagaha)
điều này:
- Này gia chủ, ta chính là vị A La Hán và lại có thần thông nữa, ngươi hãy
dâng cái bình bát cho ta.
- Bạch đại đức, nếu ngài chính là vị A La Hán và lại có thần thông nữa thì
ngài hãy lấy quà biếu là cái bình bát xuống đi.
Rồi Makkhali Gosāla, Ajita Kesakambala, Pakudho Kaccāyana, Sañcaya
Belatthaputta, Nigantha nātaputta [*] đã đi đến gặp nhà đại phú
thành Vương Xá (Rājagaha). Đến rồi mới nói với nhà đại phú thành Vương Xá
(Rājagaha) điều này:
- Này gia chủ, ta chính là vị A La Hán và lại có thần thông nữa, ngươi hãy
dâng cái bình bát cho ta.
- Bạch đại đức, nếu ngài chính là vị A La Hán và lại có thần thông nữa thì
ngài hãy lấy quà biếu là cái bình bát xuống đi.
[*] Sáu vị đứng đầu sáu nhóm ngoại đạo thời đó.
[31] Vào lúc bấy giờ, đại đức Mahāmoggallāna và đại đức
Pindolabhāradvāja vào buổi sáng đã mặc y, cầm y bát, rồi đi vào thành Vương Xá
(Rājagaha) để khất thực. Khi ấy, đại đức Pindolabhāradvāja đã nói với đại đức
Mahāmoggallāna điều này:
- Đại đức Mahāmoggallāna chính là vị A La Hán và lại có thần thông nữa. Này
đại đức Mahāmoggallāna, hãy đi và lấy xuống cái bình bát ấy đi. Cái bình bát đó
là của đại đức.
Khi ấy, đại đức Mahāmoggallāna cũng đã nói với đại đức Pindolabhāradvāja
điều này:
- Đại đức Pindolabhāradvāja chính là vị A La Hán và lại có thần thông nữa.
Này đại đức Pindolabhāradvāja, hãy đi và lấy xuống cái bình bát ấy đi. Cái
bình bát đó là của đại đức.
Khi đó, đại đức Pindolabhāradvāja đã bay lên không trung, cầm lấy cái bình
bát, và đi (trên không) quanh thành Vương Xá (Rājagaha) ba vòng.
[32] Vào lúc bấy giờ, nhà đại phú thành Vương Xá (Rājagaha) cùng vợ và
con đang đứng ở sân nhà, hai tay chắp lên trán, thành kính làm lễ:
- Bạch đại đức, xin ngài Bhāradvāja hãy ngự đến nhà của chúng tôi ở ngay chỗ
này.
Rồi đại đức Pindolabhāradvāja đã ngự đến nhà của nhà đại phú thành Vương Xá
(Rājagaha). Lúc ấy, nhà đại phú thành Vương Xá (Rājagaha) đã nhận lấy cái bình
bát từ tay của đại đức Pindolabhāradvāja, chất đầy thức ăn thượng hảo hạng rồi
dâng lại cho đại đức Pindolabhāradvāja. Sau đó, đại đức Pindolabhāradvāja đã
nhận lại cái bình bát rồi đi về tu viện. Dân chúng đã nghe rằng: "Nghe nói
cái bình bát của nhà đại phú thành Vương Xá (Rājagaha) đã được lấy xuống bởi
ngài Pindolabhāradvāja rồi." Các người ấy với âm thanh ồn ào và ầm ĩ đã
nối đuôi nhau đi phía sau lưng của đại đức Pindolabhāradvāja. Và đức Thế Tôn
đã nghe được âm thanh ồn ào và ầm ĩ; nghe rồi, ngài đã nói với đại đức Ānanda
rằng:
- Này Ānanda, cái âm thanh ồn ào và ầm ĩ đó là chuyện gì vậy?
- Bạch ngài, cái bình bát của nhà đại phú thành Vương Xá (Rājagaha) đã được
lấy xuống bởi đại đức Pindolabhāradvāja. Và bạch ngài, dân chúng đã nghe rằng:
"Nghe nói cái bình bát của nhà đại phú thành Vương Xá (Rājagaha) đã được lấy
xuống bởi ngài Pindolabhāradvāja rồi." Bạch ngài, các người ấy với âm
thanh ồn ào và ầm ĩ đã nối đuôi nhau đi phía sau lưng của đại đức
Pindolabhāradvāja. Bạch ngài, bạch Thế Tôn, cái âm thanh ồn ào và ầm ĩ đó là
chuyện như thế.
[33] Khi đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự việc ấy đã triệu tập
hội chúng tỷ-kheo lại và đã hỏi đại đức Pindolabhāradvāja rằng:
- Này Bhāradvāja, nghe nói cái bình bát của nhà đại phú thành Vương Xá
(Rājagaha) đã được nhà ngươi lấy xuống, có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này Bhāradvāja, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không
xứng pháp sa-môn, là sai trái, không nên làm. Này Bhāradvāja, vì sao ngươi lại
để lộ pháp thượng nhân tức là sự huyền diệu của phép thần thông trước hàng tại
gia vì mục đích là một cái bình bát gỗ tầm thường! Này Bhāradvāja, giống như một
người đàn bà cho xem chỗ kín chỉ vì mục đích là một đồng xu tầm thường; cũng y
như thế, này Bhāradvāja, chuyện ngươi để lộ ra pháp thượng nhân tức là sự huyền
diệu của phép thần thông trước hàng tại gia vì mục đích là một cái bình bát gỗ
tầm thường. Này Bhāradvāja, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa
có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, không nên để lộ pháp thượng nhân tức là sự huyền diệu của
phép thần thông trước hàng tại gia. Vị nào để lộ thì phạm tội tác ác (dukkata).
Này các tỷ-kheo, hãy đập vỡ bình bát ấy, nghiền thành bột vụn, rồi hãy dâng đến
các tỷ-kheo làm thuốc thoa mắt. Này các tỷ-kheo, không nên dùng bình bát bằng
gỗ. Vị nào dùng thì phạm tội tác ác (dukkata).
[34] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư sử dụng nhiều bình bát
loại đặc biệt: loại làm bằng vàng, loại làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng bình bát làm bằng vàng, không nên sử
dụng bình bát làm bằng bạc, không nên sử dụng bình bát làm bằng ngọc ma-ni,
không nên sử dụng bình bát làm bằng đá quý, không nên sử dụng bình bát làm bằng
pha-lê, không nên sử dụng bình bát làm bằng đồng đỏ, không nên sử dụng bình bát
làm bằng thủy tinh, không nên sử dụng bình bát làm bằng thiếc, không nên sử dụng
bình bát làm bằng chì, không nên sử dụng bình bát làm bằng đồng thau. Vị nào sử
dụng thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép hai loại bình
bát: bình bát sắt và bình bát đất.
[35] Vào lúc bấy giờ, phần đáy bình bát bị làm trầy. Các vị đã
trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) vòng đế bình bát [tức là chân
bình bát dạng vòng tròn].
[36] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư sử dụng các vòng đế bình
bát loại đặc biệt: làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng các vòng đế bình bát loại đặc biệt. Vị
nào sử dụng thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép hai
loại vòng đế bình bát: loại làm bằng thiếc và loại làm bằng chì.
Những vòng đế dày cộm không giữ yên (bình bát). Các vị đã trình việc ấy lên
đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép đẻo gọt bớt.
Chúng vẫn lỏng chỏng. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép chẻ răng cá kiếm (cắm vào để giữ bình bát).
[37] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư sử dụng nhiều loại vòng
đế bình bát: loại có tranh vẽ, loại có đắp hình nổi. Các vị đi đó đây phô trương
những thứ ấy ở đường phố. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng nhiều loại vòng đế bình bát: loại có
tranh vẽ, loại có đắp hình nổi. Vị nào sử dụng thì phạm tội tác ác (dukkata).
Này các tỷ-kheo, ta cho phép loại vòng đế bình thường.
[38] Vào lúc bấy giờ, các vị tỷ-kheo đem cất bình bát còn nước. Bình
bát bị hư hỏng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đem cất bình bát còn nước. Vị nào đem cất thì
phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép đem cất bình bát sau
khi phơi nắng.
[39] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đem phơi nắng bình bát còn nước.
Bình bát có mùi hôi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đem phơi nắng bình bát còn nước. Vị nào đem phơi
nắng thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép đem cất bình
bát sau khi làm ráo nước và đem phơi nắng.
[40] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo lưu trữ bình bát ở chỗ nóng. Màu sắc
của bình bát bị hoại. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên lưu trữ bình bát ở chỗ nóng. Vị nào lưu trữ thì
phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép đem cất bình bát sau
khi phơi nắng trong một khoảng thời gian ngắn.
[41] Vào lúc bấy giờ, có nhiều bình bát được đặt xuống ở bên ngoài
trời không có vật kềm giữ. Các bình bát bị làm quay tròn bởi gió xoáy và bị vỡ.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) vật kềm giữ bình bát.
[42] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đặt bình bát xuống ở rìa của băng
ghế dài (middhanta). Bình bát đã rơi xuống và bị vỡ. Các vị đã trình sự việc
ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đặt bình bát xuống ở rìa của băng ghế dài. Vị
nào đặt xuống thì phạm tội tác ác (dukkata).
[43] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đặt bình bát xuống ở mép giường đúc
(paribhandanta). Bình bát đã rơi xuống và bị vỡ. Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đặt bình bát xuống ở mép giường đúc. Vị nào đặt
xuống thì phạm tội tác ác (dukkata).
[44] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo lật úp bình bát ở trên mặt đất. Vành
miệng (bình bát) bị trầy. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) miếng lót bằng cỏ.
Miếng lót bằng cỏ bị mối ăn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
…(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) một mảnh vải.
Mảnh vải bị mối ăn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) bục kê.
Bình bát đã rơi từ bục kê và bị vỡ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) giỏ mây chứa bình bát.
Ở trong giỏ mây chứa bình bát, bình bát bị trầy. Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) túi đựng bát.
Không có dây buộc vai. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) dây vải làm dây buộc vai.
[45] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo treo bình bát ở chốt đinh gắn trên
tường. Bình bát rơi xuống và bị vỡ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
…(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên treo bình bát. Vị nào treo thì phạm tội tác ác
(dukkata).
[46] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đặt bình bát xuống ở giường, khi
ngồi xuống không nhớ đã đụng và làm vỡ bình bát. Các vị đã trình sự việc ấy lên
đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đặt bình bát xuống ở giường. Vị nào đặt xuống
thì phạm tội tác ác (dukkata).
[47] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đặt bình bát xuống ở ghế, khi ngồi
xuống không nhớ đã đụng và làm vỡ bình bát. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đặt bình bát xuống ở ghế. Vị nào đặt xuống thì
phạm tội tác ác (dukkata).
[48] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đặt bình bát xuống ở trên bắp vế,
khi đứng dậy không nhớ; bình bát đã rơi xuống và bị vỡ. Các vị đã trình sự việc
ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đặt bình bát xuống ở trên bắp vế. Vị nào đặt
xuống thì phạm tội tác ác (dukkata).
[49] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đặt bình bát xuống ở trên cái dù.
Cái dù đã bị bật lên vì gió xoáy; bình bát đã rơi xuống và bị vỡ. Các vị đã
trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đặt bình bát xuống ở trên cái dù. Vị nào đặt
xuống thì phạm tội tác ác (dukkata).
[50] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo mở cửa với bình bát ở tay. Cánh cửa
quay trở lại khiến bình bát bị vỡ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
…(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên mở cửa với bình bát ở tay. Vị nào mở cửa thì
phạm tội tác ác (dukkata).
[51] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đi khất thực (chứa) bằng bầu đựng
nước. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các vị ngoại đạo vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đi khất thực (chứa) bằng bầu đựng nước. Vị nào
đi (khất thực như thế) thì phạm tội tác ác (dukkata).
[52] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đi khất thực (chứa) bằng hũ đựng
nước. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các vị ngoại đạo vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đi khất thực (chứa) bằng hũ đựng nước. Vị nào đi
(khất thực như thế) thì phạm tội tác ác (dukkata).
[53] Vào lúc bấy giờ, có tỷ-kheo nọ là vị chỉ sử dụng các vật đã bị
quăng bỏ (ở bãi tha ma, ở đống rác). Vị ấy mang bình bát của cái sọ người. Một
phụ nữ nhìn thấy, hoảng sợ thét lên:
- Gã này đúng là quỷ sứ; làm ta hết hồn!
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các sa-môn Thích-tử lại sử dụng bình bát của cái sọ người, giống như
kẻ thờ phụng quỷ thần vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng bình bát của cái sọ người. Vị nào sử
dụng thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, không nên sinh tồn hoàn
toàn chỉ nhờ vào các vật đã bị quăng bỏ. Vị nào sinh tồn (như thế) thì phạm tội
tác ác (dukkata).
[54] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo dùng bình bát để mang đi các đồ thừa
thải, xương xóc, và nước cặn. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Không lẽ nào các vị sa-môn Thích-tử này lại ăn trong chính cái vật là đồ
chứa rác của các vị?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên dùng bình bát để mang đi các đồ thừa thải, xương
xóc, hay nước cặn. Vị nào mang đi thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các
tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) đồ chứa rác.
[55] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo xé (vải) bằng tay rồi may y
ca-sa. Y ca-sa trông không thẩm mỹ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
…(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) dao nhỏ có vỏ bọc.
[56] Vào lúc bấy giờ, dao có cán đã được phát sanh đến hội chúng. Các
vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) dao có cán.
[57] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư sử dụng các cán dao loại
đặc biệt: làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai
rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng các cán dao loại đặc biệt. Vị nào sử
dụng thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm bằng
xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, làm bằng ống sậy, làm bằng tre, làm
bằng gỗ, làm bằng nhựa cây, làm bằng trái cây, làm bằng đồng, làm bằng vỏ sò.
[58] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo may y ca-sa bằng lông gà và lạt tre.
Y ca-sa được may vụng về. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) kim khâu.
Các cây kim khâu trở nên cùn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) ống đựng kim khâu.
Trong ống đựng kim khâu, các cây kim cũng trở nên cùn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép đựng với bột phấn.
Dù (đựng) trong bột phấn, các cây kim cũng trở nên cùn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép đựng với bột nghệ.
Dù (đựng) trong bột nghệ, các cây kim cũng trở nên cùn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép đựng với bột đá.
Dù (đựng) trong bột đá, các cây kim cũng trở nên cùn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép trộn với mật và sáp ong.
Chất hỗn hợp bị tách rời nhau.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) hộp nhỏ chứa hỗn hợp ấy.
[59] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo cắm cọc ở các nơi, buộc (vải) lại
với nhau rồi may y. Y không được vuông vức. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) tấm y mẫu (kathina) và sau khi
buộc dây của tấm y mẫu vào chỗ này chỗ kia rồi mới may y.
Các vị đã trải tấm y mẫu ở chỗ không bằng phẳng. Tấm y mẫu bị rời ra. …(như
trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên căng tấm y mẫu ở chỗ không bằng phẳng. Vị nào
căng thì phạm tội tác ác (dukkata).
Các vị đã trải tấm y mẫu ở trên mặt đất. Tấm y mẫu bị dơ. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) thảm cỏ.
Khu vực ở giữa sườn bị thụng xuống. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép căng dây dọc theo chiều gió.
Tấm y mẫu không đạt kích thước. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) cọc căng, cây dùi, que gỗ, dây buộc,
chỉ khâu, kết lại trước rồi may y.
Khoảng cách ở giữa các đoạn chỉ khâu không đều nhau. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc làm dấu bằng mực.
Các đường chỉ bị cong quẹo. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc khâu chỉ may làm dấu.
[60] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo bước lên tấm y mẫu với bàn chân chưa
rửa. Tấm y mẫu bị hỏng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên bước lên tấm y mẫu với bàn chân chưa rửa. Vị nào
bước lên thì phạm tội tác ác (dukkata).
[61] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo bước lên tấm y mẫu với bàn chân đẫm
nước. Tấm y mẫu bị hỏng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên bước lên tấm y mẫu với bàn chân đẫm nước. Vị nào
bước lên thì phạm tội tác ác (dukkata).
[62] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo mang giày dép bước lên tấm y mẫu.
Tấm y mẫu bị hỏng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên mang giày dép bước lên tấm y mẫu. Vị nào bước
lên thì phạm tội tác ác (dukkata).
[63] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo dùng ngón tay (cầm kim) khi may y.
Các ngón tay bị đau. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) vật bao ngón tay (khi may vá).
[64] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư sử dụng các vật
bao ngón tay loại đặc biệt: làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng các vật bao ngón tay loại đặc biệt. Vị
nào sử dụng thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm
bằng xương, …(như trên)… làm bằng vỏ sò.
[65] Vào lúc bấy giờ, những cây kim, những con dao, luôn cả những vật
bao ngón tay bị thất lạc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) thùng chứa ở chỗ làm. Những vật trên
bị lẫn lộn trong thùng chứa. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) bao để đựng vật bao ngón tay.
Dây mang vai không có. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) dây mang vai là chỉ thắt lại.
[66] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo trong khi may y ở ngoài trời đã bị
mệt mỏi vì lạnh và nóng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) nhà may y hoặc mái che tạm để may y.
Nhà may y có nền thấp nên bị ngập nước. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền móng bằng gạch,
nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn khi trèo lên …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ba loại cầu thang: cầu thang gạch, cầu thang
đá, cầu thang gỗ.
Các vị bị té khi bước lên (cầu thang). …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
[67] Vào lúc bấy giờ, rác cỏ và bụi bặm rơi vào trong nhà may y. …(như
trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép che kín mái và (và làm các công việc sau): tô
vữa ở trong và ở ngoài, việc sơn màu trắng, màu đen, màu đỏ, trang hoàng hình
vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm
loại, sào máng y, dây treo y.
[68] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo sau khi may y xong đã bỏ bê tấm y
mẫu rồi ra đi. Tấm y mẫu bị các con chuột và mối ăn. Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép gấp tấm y mẫu lại.
Tấm y mẫu bị rời ra thành mảnh. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép gấp tấm y mẫu lại bằng tấm da bò
(gogham-sika).
Tấm y mẫu bị bung ra. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép dây buộc lại.
[69] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo sau khi đưa tấm y mẫu lên cất ở trên
vách tường hoặc ở trên cột nhà rồi ra đi. Tấm y mẫu bị rơi xuống và bị rời ra
thành miếng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép treo lên ở đinh gắn ở tường hoặc ở cái móc.
[70] Rồi đức Thế Tôn sau khi ngự tại thành Vương Xá (Rājagaha) được
như ý đã lên đường đi đến Vesāli. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đã dùng bát chứa
đựng kim, dao nhỏ, và thuốc men rồi ra đi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) túi đựng thuốc men.
Dây mang vai không có. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) dây mang vai làm bằng chỉ thắt lại.
[71] Vào lúc bấy giờ, có một tỷ-kheo buộc đôi dép lại bằng dây thắt
lưng rồi vào làng khất thực. Một cận sự nam khi đảnh lễ tỷ-kheo ấy bị đôi dép
chạm vào đầu. Tỷ-kheo ấy đã xấu hổ. Rồi khi đến tu viện tỷ-kheo ấy đã trình sự
việc ấy lên các tỷ-kheo. Các tỷ-kheo đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) túi mang dép.
Dây mang vai không có. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) dây mang vai làm bằng chỉ thắt lại.
[72] Vào lúc bấy giờ, trên đường đi nước không được làm cho đúng luật
(akappiyaṃ). Đồ lược nước không có. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) đồ lược nước.
Mảnh vải lược không có hiệu quả. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) đồ lược nước gắn ở gáo múc.
Mảnh vải lược không có hiệu quả. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm theo thông lệ.
[73] Vào lúc bấy giờ, có hai tỷ-kheo đang đi đường xa trong xứ Kosaka.
Một tỷ-kheo thường thực hành điều không tốt đẹp. Vị tỷ-kheo thứ hai đã nói với
vị tỷ-kheo ấy điều này:
- Này sư đệ, chớ làm như thế. Điều ấy không được phép.
Vị tỷ-kheo ấy đã sanh ác cảm với vị kia (về sự phê bình). Sau đó, vị kia, bị
khó chịu vì khát nước, đã nói với vị tỷ-kheo đang mang mối ác cảm rằng:
- Này sư đệ, hãy đưa tôi đồ lược nước, tôi sẽ uống nước.
Do ác cảm, vị tỷ-kheo ấy đã không đưa cho. Vị tỷ-kheo bị khó chịu vì khát
nước đã chết đi. Rồi vị tỷ-kheo ấy đã đi đến tu viện và trình sự việc ấy đến các
tỷ-kheo.
- Này sư đệ, không lẽ sư đệ không đưa cho khi được hỏi mượn đồ lược nước hay
sao?
- Bạch đại đức, đúng vậy.
Các tỷ-kheo ít ham muốn,…(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai
rằng:
- Vì sao vị tỷ-kheo lại không đưa cho khi được hỏi mượn đồ lược nước?
Rồi các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[74] Khi đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự việc ấy đã triệu tập
hội chúng tỷ-kheo lại và hỏi vị tỷ-kheo ấy rằng:
- Này tỷ-kheo, nghe nói ngươi không đưa cho khi được hỏi mượn đồ lược nước,
có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại kia, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không
xứng pháp sa-môn, là sai trái, không nên làm. Này kẻ rồ dại kia, vì sao ngươi
lại không đưa cho khi được hỏi mượn đồ lược nước vậy? Này kẻ rồ dại kia, sự việc
này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, khi vị tỷ-kheo đi đường xa hỏi mượn đồ lược nước, không
thể không cho. Vị nào không cho thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo,
không có đồ lược nước đi đường xa là điều không nên thực hành. Vị nào thực hành
thì phạm tội tác ác (dukkata). Nếu không có đồ lược nước hoặc đồ lược theo
thông lệ, có thể chú nguyện chéo y hai lớp (saṅghāti):
- Tôi sẽ uống sau khi lược nước bằng vật này.
[75] Rồi đức Thế Tôn tiếp tục du hành, lần lượt đã ngự đến Vesālī. Ở
đó, trong xứ Vesālī, đức Thế Tôn ngụ tại Đại Lâm (Mahāvana) giảng đường
Kūtāgāra.
[76] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đang bận việc xây dựng. Đồ lược nước
không làm trong (nước) được. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép đồ lược nước hai lớp.
Đồ lược nước hai lớp không làm trong (nước) được. Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) bể lọc nước (ottharakaṃ).
[77] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo bị khuấy rối bởi các con muỗi. Các
vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) lều chống muỗi.
[78] Vào lúc bấy giờ, ở xứ Vesālī, các bữa ăn ngon được luân phiên
dâng cúng. Các tỷ-kheo ăn thức ăn ngon nên cơ thể bị tiêu chảy và sanh nhiều
chứng bệnh. Khi ấy, (thầy thuốc) Jīvaka Komārabhacca đã đến Vesālī do một công
việc cần làm gì đó. Jīvaka Komārabhacca đã chứng kiến các tỷ-kheo có cơ thể bị
tiêu chảy và sanh nhiều chứng bệnh. Thấy vậy, Jīvaka Komārabhacca đã đi đến gặp
đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Sau khi
ngồi xuống một bên, Jīvaka Komārabhacca đã bạch với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, giờ đây các tỷ-kheo có cơ thể bị tiêu chảy và sanh nhiều chứng
bệnh. Tốt thay, bạch ngài, xin đức Thế Tôn cho phép các tỷ-kheo (sử dụng) lối đi
kinh hành và phòng tắm hơi; như thế, các tỷ-kheo sẽ bớt bệnh hoạn.
Khi đó, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn
khởi cho Jīvaka Komārabhacca bằng bài Pháp thoại. Và Jīvaka Komārabhacca sau khi
được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng
bài Pháp thoại đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải
nhiễu quanh, rồi ra đi.
[79] Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự việc ấy đã thuyết Pháp
thoại và bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) lối đi kinh hành và phòng tắm hơi.
[80] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đi kinh hành trên lối đi kinh hành
không được bằng phẳng. Chân (các vị) bị đau. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm cho bằng phẳng.
[81] Lối đi kinh hành có nền thấp nên bị ngập nước. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền móng bằng gạch,
nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn khi trèo lên …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ba loại cầu thang: cầu thang gạch, cầu thang
đá, cầu thang gỗ.
Các vị bị té khi bước lên (cầu thang). …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
[82] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo khi đi kinh hành ở lối đi kinh hành
bị té. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) tay vịn ở lối đi kinh hành.
[83] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo khi đi kinh hành ở ngoài trời đã bị
mệt vì lạnh và nóng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) nhà đi kinh hành.
Rác cỏ và bụi bặm rơi vào trong nhà đi kinh hành. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép che kín mái và và làm (các công việc): tô vữa
ở trong và ở ngoài, việc sơn màu trắng, màu đen, màu đỏ, trang hoàng hình vòng
hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm
loại, sào máng y, dây treo y.
[84] Phòng tắm hơi có nền thấp nên bị ngập nước. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền móng bằng gạch,
nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn khi trèo lên …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ba loại cầu thang: cầu thang gạch, cầu thang
đá, cầu thang gỗ.
Các vị bị té khi bước lên (cầu thang). …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
Phòng tắm hơi không có cửa. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) cửa, trụ cửa, rãnh xoay, chốt
xoay, tay nắm, chốt gài, đinh khóa chốt, chốt phụ, lỗ khóa, lỗ để xỏ dây, dây
thừng để luồn qua.
Chân tường của phòng tắm hơi bị hư hỏng. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép xây mô tròn.
Phòng tắm hơi không có ống thông khói.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) ống thông khói.
[85] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo làm chỗ đốt lửa ở giữa phòng tắm hơi
có khuôn viên hẹp. Lối đi lại không có. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm chỗ đốt lửa ở một bên trong phòng tắm hơi
có khuôn viên hẹp, ở giữa (phòng tắm hơi) có khuôn viên rộng.
Trong phòng tắm hơi, ngọn lửa làm phỏng mặt (các tỷ-kheo). …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) đất sét (bôi) ở mặt.
Các vị bị nhão nhẹt đất sét ở tay. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) chậu đựng đất sét.
Đất sét có mùi hôi. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ủ (đất sét).
[86] Vào lúc bấy giờ, ở trong phòng tắm hơi, ngọn lửa làm phỏng thân
mình (các tỷ-kheo). …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép tưới đẫm nước (lên thân).
Các vị tưới đẫm nước (lên thân) bằng nắp bình bát và bằng bình bát. …(như
trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) vại chứa nước (và) gáo múc nước.
Phòng tắm hơi lợp cỏ không làm tiết ra mồ hôi. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép che kín mái và tô vữa ở trong và ở ngoài.
Phòng tắm hơi bị ẩm ướt. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép lót nền bằng ba loại nền: nền bằng gạch, nền
bằng đá, nền bằng gỗ.
(Phòng tắm hơi) vẫn còn bị ẩm ướt. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép lau sạch.
Nước còn đọng lại. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (làm) rãnh thoát nước.
[87] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ngồi trệt trên nền nhà trong phòng
tắm hơi, tay chân bị trầy trụa. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) ghế ngồi ở phòng tắm hơi.
[88] Vào lúc bấy giờ, phòng tắm hơi không được rào lại. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép rào quanh ba loại hàng rào: hàng rào bằng
gạch, hàng rào bằng đá, hàng rào bằng gỗ.
Không có cổng ra vào …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) cổng ra vào.
Cổng ra vào có nền thấp nên bị ngập nước. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền móng bằng gạch,
nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn khi trèo lên …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ba loại cầu thang: cầu thang gạch, cầu thang
đá, cầu thang gỗ.
Các vị bị té khi bước lên (cầu thang). …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
Cổng ra vào không có cửa. …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) cửa, trụ cửa, rãnh xoay, chốt
xoay, tay nắm, chốt gài, đinh khóa chốt, chốt phụ, lỗ khóa, lỗ để xỏ dây, dây
thừng để luồn qua.
[89] Vào lúc bấy giờ, rác cỏ và bụi bặm rơi ở cổng ra vào. …(như
trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép che kín mái và làm (các công việc): tô vữa ở
trong và ở ngoài, việc sơn màu trắng, màu đen, màu đỏ, trang hoàng hình vòng
hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm
loại, sào máng y, dây treo y.
Căn phòng bị ẩm ướt. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép phủ cát lên.
Các vị không thành công. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép trải đá phiến.
Nước còn đọng lại. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (làm) rãnh thoát nước.
[90] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo (lúc đang) ở trần đảnh lễ vị tỷ-kheo
ở trần, (lúc đang) ở trần đảnh lễ vị không ở trần, (lúc đang) ở trần bảo (vị
khác) đảnh lễ vị ở trần, (lúc đang) ở trần bảo (vị khác) đảnh lễ vị không ở
trần, (lúc đang) ở trần phục vụ vị ở trần, (lúc đang) ở trần phục vụ vị không ở
trần, (lúc đang) ở trần bảo (vị khác) phục vụ vị ở trần, (lúc đang) ở trần bảo
(vị khác) phục vụ vị không ở trần, (lúc đang) ở trần dâng đồ cho vị ở trần, thọ
nhận (lúc đang) ở trần, nhai thức ăn (lúc đang) ở trần, thọ dụng thức ăn (lúc
đang) ở trần, ngủ (lúc đang) ở trần, uống (lúc đang) ở trần. Các vị đã trình sự
việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, (lúc đang) ở trần không nên đảnh lễ vị ở trần, (lúc đang)
ở trần không nên đảnh lễ, (lúc đang) ở trần không nên bảo (vị khác) đảnh lễ vị ở
trần, (lúc đang) ở trần không nên bảo (vị khác) đảnh lễ, (lúc đang) ở trần không
nên phục vụ vị ở trần, (lúc đang) ở trần không nên bảo (vị khác) phục vụ, (lúc
đang) ở trần không nên dâng đồ cho vị ở trần, không nên thọ nhận (lúc đang) ở
trần, không nên nhai thức ăn (lúc đang) ở trần, không nên thọ dụng thức ăn (lúc
đang) ở trần, không nên ngủ (lúc đang) ở trần, không nên uống (lúc đang) ở trần.
Vị nào uống (lúc đang ở trần) thì phạm tội tác ác (dukkata).
[91] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo để y ca-sa xuống trên nền nhà trong
phòng tắm hơi. Y ca-sa bị dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) sào máng y, dây treo y.
Lúc trời mưa, mưa rơi ở trên y ca-sa. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) gian nhà lớn ở phòng tắm hơi.
Gian nhà lớn ở phòng tắm hơi có nền thấp nên bị ngập nước. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng… (như trên)…
Các vị bị khó khăn khi trèo lên …(như trên) …
Các vị bị té khi bước lên (cầu thang). …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
[92] Vào lúc bấy giờ, rác cỏ và bụi bặm rơi vào trong phòng tắm hơi.
…(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép che kín mái và làm (các công việc): tô vữa ở
trong và ở ngoài …(như trên)… sào máng y, dây treo y.
[93] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ngần ngại khi làm công việc kỳ cọ
lưng ở trong phòng tắm hơi, ở trong hồ nước. Các vị đã trình sự việc lên đức Thế
Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ba loại tấm choàng: tấm choàng ở phòng tắm
hơi, tấm choàng ở trong nước, và tấm choàng bằng vải.
[94] Vào lúc bấy giờ, trong phòng tắm hơi không có nước. Các vị đã
trình sự việc lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) giếng nước.
Thành giếng bị sụp đổ. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép xây dựng ba loại thành giếng: thành giếng bằng
gạch, thành giếng bằng đá, thành giếng bằng gỗ.
Giếng nước có nền thấp nên bị ngập nước. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
Các vị bị khó khăn khi trèo lên …(như trên) …
Các vị bị té khi bước lên (cầu thang)…(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
[95] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo kéo nước lên bằng dây rừng,
bằng dây buộc thân. Các vị đã trình sự việc lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) dây thừng để kéo nước.
Hai bàn tay bị đau. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) cần giọt, cần trục quay, bánh xe
ròng rọc.
Các thùng (kéo nước) bị bể nhiều. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ba loại gàu (kéo nước): gàu bằng thiếc, gàu
bằng gỗ, gàu làm bằng các sợi da thuộc.
[96] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo trong khi kéo nước ở ngoài trời đã
bị mệt mỏi vì lạnh và nóng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) gian nhà ở giếng.
Rác cỏ và bụi bặm rơi vào trong gian nhà ở giếng. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép che kín mái và làm (các công việc): tô vữa ở
trong và ở ngoài, việc sơn màu trắng, màu đen, màu đỏ, trang hoàng hình vòng
hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm
loại, sào máng y, dây treo y.
[97] Vào lúc bấy giờ, giếng không được che đậy khiến rác cỏ, bụi bặm,
và đất cát rơi vào. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) nắp đậy.
[98] Đồ đựng nước không có. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) máng đựng nước, chậu đựng nước.
[99] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo tắm ở nơi này nơi kia trong khuôn
viên tu viện. Khuôn viên tu viện trở nên lầy lội. Các vị đã trình sự việc ấy lên
đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) hồ nước (để tắm).
Hồ tắm quá trống trải. Các tỷ-kheo mắc cở khi tắm. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép rào quanh lại (bằng) ba loại hàng rào: hàng
rào bằng gạch, hàng rào bằng đá, hàng rào bằng gỗ.
Hồ tắm bị lầy lội. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép lót nền bằng ba loại nền: nền bằng gạch, nền
bằng đá, nền bằng gỗ.
Nước còn đọng lại. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (làm) rãnh thoát nước.
[100] Vào lúc bấy giờ, thân thể của các tỷ-kheo bị lạnh. Các vị đã
trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc làm ráo nước bằng cách lau khô với một
miếng vải.
[101] Vào lúc bấy giờ, có vị cận sự nam muốn làm một hồ trữ nước để
đem lại sự ích lợi cho hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
…(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) hồ trữ nước.
Thành của hồ trữ nước bị sụp đổ. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép xây dựng ba loại thành (của hồ trữ nước):
thành bằng gạch, thành bằng đá, thành bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn khi trèo lên …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ba loại cầu thang: cầu thang gạch, cầu thang
đá, cầu thang gỗ.
Các vị bị té khi bước lên (cầu thang). …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
Nước trong hồ trữ nước bị ôi. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc tháo nước ra làm nước tưới.
[102] Vào lúc bấy giờ, có vị cận sự nam muốn tự tay thực hiện một
phòng tắm hơi có mái vòng cung (nillekhaṃ) để đem lại sự ích lợi cho hội chúng.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) phòng tắm hơi có mái vòng cung.
[103] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư lìa xa toạ cụ trong bốn
tháng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên lìa xa toạ cụ trong bốn tháng. Vị nào lìa xa
(toạ cụ) thì phạm tội tác ác (dukkata).
[104] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư ngủ trên những cái
giường có rãi hoa. Dân chúng khi đi dạo quanh tu viện thấy thế đã phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như người tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên ngủ trên những cái giường có rãi hoa. Vị nào ngủ
thì phạm tội tác ác (dukkata).
[105] Vào lúc bấy giờ, dân chúng đi đến tu viện mang theo dầu thơm và
vòng hoa. Các tỷ-kheo ngần ngại không thọ lãnh. Các vị đã trình sự việc ấy lên
đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép sau khi nhận dầu thơm rồi thì in dấu năm ngón
tay lên cửa (kavāte pañcaṅgulikam- dātuṃ) và sau khi nhận hoa rồi thì đem đặt ở
một góc trong trú xá.
[106] Vào lúc bấy giờ, một thảm len đã phát sanh đến hội chúng. Các vị
đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) thảm len.
Khi ấy, các tỷ-kheo đã khởi ý như vầy: "Thảm len nên được chú nguyện để
dùng riêng (adhitthātabbaṃ) hay chú nguyện để dùng chung (vikappeti)?"
…(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, thảm len không nên được chú nguyện để dùng riêng hay chú
nguyện để dùng chung.
[107] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư ăn ở trên ghế trường kỷ
được chạm trổ (āsittakupadhāne). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống người tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên ăn ở trên ghế trường kỷ được chạm trổ. Vị nào ăn
thì phạm tội tác ác (dukkata).
[108] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo bị bệnh. Vị ấy trong khi ăn không
thể kềm giữ bình bát bằng tay được. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) giá đỡ bình bát (malorikaṃ).
[109] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư cùng ăn trong một đĩa,
cùng uống trong một cốc, cùng nằm trên một giường, cùng nằm trên một nệm, cùng
nằm trên một khăn trải, cùng nằm trên một nệm có trải khăn. Dân chúng phàn nàn,
phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như người tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên cùng ăn trong một đĩa, không nên cùng uống trong
một cốc, không nên cùng nằm trên một giường, không nên cùng nằm trên một nệm,
không nên cùng nằm trên một khăn trải, không nên cùng nằm trên một nệm có trải
khăn. Vị nào nằm thì phạm tội tác ác (dukkata).
[110] Vào lúc bấy giờ, Vaddha Licchavī là đạo hữu của các tỷ-kheo
nhóm Mettiya và Bhummajaka. Khi ấy, Vaddha Licchavī đi đến gặp các tỷ-kheo
nhóm Mettiya và Bhummajaka, đến rồi đã nói với các tỷ-kheo nhóm Mettiya và
Bhummajaka rằng:
- Tôi xin chào các ngài.
Khi được nói vậy, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka không trả lời. Lần
thứ nhì, Vaddha Licchavī đã nói với các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka
rằng:
- Tôi xin chào các ngài.
Lần thứ nhì, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka không trả lời. Lần thứ
ba, Vaddha Licchavī đã nói với các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka rằng:
- Tôi xin chào các ngài.
Lần thứ ba, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka không trả lời.
- Tôi làm điều gì phật lòng các ngài? Vì lẽ gì mà các ngài không trả lời tôi?
- Bởi vì như vầy, này đạo hữu Vaddha, trong khi chúng tôi bị Dabba
Mallaputta gây bực bội thì ngươi vẫn dửng dưng.
- Thưa các ngài, vậy tôi làm gì đây?
- Này đạo hữu Vaddha, nếu ngươi chịu làm thì ngay trong ngày hôm nay đức
Thế Tôn có thể trục xuất đại đức Dabba Mallaputta.
- Thưa các ngài, tôi làm được gì? Tôi có khả năng làm gì đây?
- Hãy đến đây, này đạo hữu Vaddha, ngươi hãy đi đến gặp đức Thế Tôn. Đến
rồi, ngươi hãy bạch đức Thế Tôn như vầy: "Bạch ngài, điều này là không đúng
đắn, không hợp lý. Bạch ngài, chính ở quốc độ có sự an toàn, không tai hoạ,
không sầu khổ thì chính ở quốc độ ấy có sự sợ hãi, có tai hoạ, và có sầu khổ; từ
nơi nào gió lặng đi thì từ nơi ấy có bão tố; con nghĩ rằng nước đã bùng cháy lên
rồi; vợ con đã bị đại đức Dabba Mallaputta làm ô nhục."
- Xin vâng, thưa các ngài.
Rồi Vaddha Licchavī nghe lời các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka đã đi
đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Khi đã ngồi xuống một bên, Vaddha Licchavī đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, điều này là không đúng đắn, không hợp lý. Bạch ngài, chính ở
quốc độ có sự an toàn, không tai hoạ, không sầu khổ thì chính ở quốc độ ấy có sự
sợ hãi, có tai hoạ, và có sầu khổ; từ nơi nào gió lặng đi thì từ nơi ấy có bão
tố; con nghĩ rằng nước đã bùng cháy lên rồi; vợ con đã bị đại đức Dabba
Mallaputta làm ô nhục.
[111] Khi đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự việc ấy đã triệu tập
hội chúng tỷ-kheo lại và đã hỏi đại đức Dabba Mallaputta rằng:
- Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đã hành động giống như điều vị Vaddha
này vừa nói không?
- Bạch ngài, con như thế nào đức Thế Tôn biết rõ mà.
Lần thứ nhì, đức Thế Tôn …(như trên)…
Lần thứ ba, đức Thế Tôn đã hỏi đại đức Dabba Mallaputta rằng:
- Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đã hành động giống như điều vị Vaddha
này vừa nói không?
- Bạch ngài, con như thế nào đức Thế Tôn biết rõ mà.
- Này Dabba, giòng họ Dabba không phủ nhận như thế. Nếu ngươi có làm, hãy
nói: "Có làm;" nếu không làm, hãy nói: "Không làm."
- Bạch ngài, từ khi con được sanh ra, con không bao giờ thấy mình là kẻ tầm
cầu việc đôi lứa ngay cả trong lúc ngủ mơ, huống gì là tỉnh thức.
[112] Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, như thế thì hội chúng hãy úp ngược bình bát đối với
Vaddha Licchavī, hãy thực thi (pháp) không đồng lợi hành với hội chúng.
[113] Này các tỷ-kheo, bình bát nên được úp ngược đối với vị cận sự
nam biểu hiện tám điều: vị ấy ra sức làm cho các tỷ-kheo không được lợi lộc, vị
ấy ra sức làm cho các tỷ-kheo không được sự lợi ích, vị ấy ra sức làm cho các
tỷ-kheo không có chỗ ngụ, vị ấy mắng nhiếc gièm pha các tỷ-kheo, vị ấy chia rẽ
các tỷ-kheo (này) với các tỷ-kheo (khác), vị ấy phỉ báng Phật, vị ấy phỉ báng
Pháp, vị ấy phỉ báng Tăng. Này các tỷ-kheo, ta cho phép úp ngược bình bát đối
với vị cận sự nam biểu hiện tám điều này.
Và này các tỷ-kheo, nên úp ngược (bình bát) như vầy: Hội chúng cần được thông
báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:
[114] Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vaddha
Licchavī bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta có sự hư hỏng về giới không có cơ sở.
Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên úp ngược bình bát đối
với Vaddha Licchavī, và thực thi (pháp) không đồng lợi hành với hội chúng. Đây
là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vaddha Licchavī bôi nhọ đại
đức Dabba Mallaputta có sự hư hỏng về giới không có cơ sở. Hội chúng úp ngược
bình bát đối với Vaddha Licchavī, và thực thi (pháp) không đồng lợi hành với
hội chúng. Đại đức nào thỏa thuận với việc úp ngược bình bát đối với Vaddha
Licchavī, và việc thực thi (pháp) không đồng lợi hành với hội chúng, xin im
lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.
Bình bát đã được úp ngược bởi hội chúng đối với Vaddha Licchavī, và (pháp)
không đồng lợi hành với hội chúng (đã được thực thi). Sự việc được hội chúng
thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
[115] Sau đó, đại đức Ānanda vào buổi sáng mặc y, cầm y bát, đi đến tư
gia của Vaddha Licchavī; đến rồi đã nói với Vaddha Licchavī điều này:
- Này đạo hữu Vaddha, hội chúng đã úp ngược bình bát đối với ngươi và
(pháp) không đồng lợi hành với hội chúng (đã được thực thi) đối với ngươi.
Khi ấy, Vaddha Licchavī (biết rằng): "Vậy là hội chúng đã úp ngược bình
bát đối với ta và (pháp) không đồng lợi hành với hội chúng (đã được thực thi)
đối với ta" nên đã choáng váng và ngã xuống ngay tại chỗ ấy. Sau đó, bạn bè
thân hữu, thân quyến ruột thịt của Vaddha Licchavī đã nói với Vaddha
Licchavī rằng:
- Được rồi, này đạo hữu Vaddha, chớ có than van, chớ có rên rỉ. Chúng tôi
sẽ làm cho đức Thế Tôn và hội chúng tỷ-kheo dịu lại.
Sau đó, Vaddha Licchavī tẩm ướt y phục và đầu tóc cùng với vợ con, bạn bè
thân hữu, và thân quyến ruột thịt đi đến gặp đức Thế Tôn, đến rồi đã đê đầu ở
hai bàn chân của đức Thế Tôn và nói điều này:
- Bạch ngài, tội lỗi đã chiếm ngự lấy con vì con là kẻ đần độn, ngu si, không
có đạo đức khi con bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không
có cơ sở. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn ghi nhận sự sai trái trong tội lỗi ấy của
con hầu để ngăn ngừa trong tương lai.
- Đúng như vậy, này đạo hữu Vaddha, tội lỗi đã chiếm ngự lấy ngươi vì ngươi
là kẻ đần độn, ngu si, không có đạo đức khi ngươi bôi nhọ đại đức Dabba
Mallaputta có sự hư hỏng về giới không có cơ sở. Chính từ việc đó, này đạo hữu
Vaddha, ngươi đã thấy được sự sai trái trong tội lỗi và chừa cải đúng theo
Pháp, nay chúng ta nhận biết điều ấy cho ngươi. Này đạo hữu Vaddha, điều này
là sự tiến bộ trong giới luật của bậc Thánh: "Người nào sau khi thấy được sự
sai trái trong tội lỗi và chừa cải đúng theo Pháp sẽ thực hành sự ngăn ngừa
trong tương lai."
[116] Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, vì việc này hội chúng hãy mở bình bát đối với Vaddha
Licchavī, hãy thực thi (pháp) đồng lợi hành với hội chúng. Này các tỷ-kheo, bình
bát nên được mở ra đối với vị cận sự nam biểu hiện tám điều: vị ấy không ra sức
làm cho các tỷ-kheo không được lợi lộc, vị ấy không ra sức làm cho các tỷ-kheo
không được sự lợi ích, vị ấy không ra sức làm cho các tỷ-kheo không có chỗ ngụ,
vị ấy không mắng nhiếc gièm pha các tỷ-kheo, vị ấy không chia rẽ các tỷ-kheo
(này) với các tỷ-kheo (khác), vị ấy không phỉ báng Phật, vị ấy không phỉ báng
Pháp, vị ấy không phỉ báng Tăng. Này các tỷ-kheo, ta cho phép mở bình bát đối
với vị cận sự nam biểu hiện tám điều này.
[117] Và này các tỷ-kheo, nên mở ra như vầy: Này các tỷ-kheo, Vaddha
Licchavī ấy cần đi đến gặp hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân
các tỷ-kheo, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên bạch như vầy:
- Bạch các ngài, hội chúng đã úp ngược bình bát đối với con, và (pháp) không
đồng lợi hành với hội chúng (đã được thực thi) đối với con. Con làm bổn phận một
cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ con cầu xin
hội chúng mở lại bình bát.
Nên cầu xin thêm lần thứ nhì. Nên cầu xin thêm lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:
[118] - Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng đã
úp ngược bình bát đối với Vaddha Licchavī, và (pháp) không đồng lợi hành với
hội chúng (đã được thực thi). Nay vị ấy thực hành đúng đắn, vị ấy biết sửa đổi,
vị ấy không tái phạm, vị ấy cầu xin hội chúng mở lại bình bát. Nếu là thời điểm
thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên mở lại bình bát đối với Vaddha
Licchavī, và (pháp) đồng lợi hành với hội chúng nên được thực thi. Đây là lời đề
nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng đã úp ngược bình
bát đối với Vaddha Licchavī, và (pháp) không đồng lợi hành với hội chúng (đã
được thực thi). Nay vị ấy thực hành đúng đắn, vị ấy biết sửa đổi, vị ấy không
tái phạm, vị ấy cầu xin hội chúng mở lại bình bát. Hội chúng mở lại bình bát đối
với Vaddha Licchavī và thực thi (pháp) đồng lợi hành với hội chúng. Đại đức
nào thỏa thuận với việc mở lại bình bát đối với Vaddha Licchavī và việc thực
thi (pháp) đồng lợi hành với hội chúng, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có
thể nói lên.
Hội chúng đã mở lại bình bát đối với Vaddha Licchavī, và (pháp) đồng lợi
hành với hội chúng (đã được thực thi). Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im
lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
[119] Rồi đức Thế Tôn sau khi ngự tại thành Vesālī được như ý
đã lên đường đi đến xứ Bhaggā. Tuần tự du hành, ngài đã ngự đến Bhaggā. Ở đó,
trong xứ Bhaggā, đức Thế Tôn ngụ tại Susumāragira nơi vườn nai trong khu rừng
Bhesakalā.
[120] Vào lúc bấy giờ, lâu đài tên Kokanada của vương tử Bodhi vừa mới
được xây dựng xong không lâu lắm, chưa có sa-môn, Bà La Môn, hay bất cứ người
nào vào cư ngụ. Khi ấy, vương tử Bodhi đã nói với chàng thanh niên con trai bà
Sañjikā rằng:
- Này con trai của bà Sañjikā mến, hãy lại đây. Bạn hãy đi đến gặp đức Thế
Tôn, đến rồi hãy đê đầu đảnh lễ ở chân của đức Thế Tôn nhân danh ta hỏi thăm xem
thân thể (đức Thế Tôn) có được cường tráng, ít bệnh, ít đau, sức khoẻ, sống có
an lạc không (như vầy): "Bạch ngài, vương tử Bodhi xin đê đầu đảnh lễ ở chân
của đức Thế Tôn, và hỏi thăm thân thể (ngài) có được cường tráng, ít bệnh, ít
đau, sức khoẻ, sống an lạc không?" Và bạn hãy nói như vầy: "Bạch đức Thế
Tôn, cầu xin ngài cùng với hội chúng tỷ-kheo nhận lời thọ trai vào ngày mai của
vương tử Bodhi."
- Xin vâng, thưa ngài.
Rồi chàng thanh niên con trai bà Sañjikā vâng lời vương tử Bodhi đã đi đến
gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã bày tỏ sự thân thiện đối với đức Thế Tôn, trao
đổi lời chào hỏi cần thiết, rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên,
chàng thanh niên con trai bà Sañjikā đã bạch với đức Thế Tôn điều này:
- Vương tử Bodhi xin đê đầu đảnh lễ ngài Gotama và hỏi thăm thân thể (ngài)
có được cường tráng, ít bệnh, ít đau, sức khoẻ, sống an lạc không? Và bảo nói
như vầy: "Cầu xin ngài Gotama cùng với hội chúng tỷ-kheo nhận lời thọ trai
vào ngày mai của vương tử Bodhi."
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi chàng thanh niên con trai
bà Sañjikā nhận biết sự bằng lòng của đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy đi về
lại chỗ vương tử Bodhi và nói với vương tử Bodhi như vầy:
- Chúng tôi đã bạch ngài Gotama ấy với lời nói của ngài là: "Vương tử
Bodhi xin đê đầu đảnh lễ ngài Gotama và hỏi thăm thân thể (ngài) có được cường
tráng, ít bệnh, ít đau, sức khoẻ, sống an lạc không?" Và bảo nói như vầy: "Cầu
xin ngài Gotama cùng với hội chúng tỷ-kheo nhận lời thọ trai vào ngày mai của
vương tử Bodhi." Và sa-môn Gotama đã nhận lời.
[121] Rồi khi đêm ấy qua đi, vương tử Bodhi đã cho chuẩn bị vật thực
thượng hạng cứng mềm rồi ra lệnh trải vải trắng ở lâu đài Kokanada cho đến tận
bậc cấp ở ngoài cùng, xong bảo chàng thanh niên con trai bà Sañjikā rằng:
- Này con trai của bà Sañjikā mến, hãy lại đây. Bạn hãy đi đến gặp đức Thế
Tôn, đến rồi hãy thông báo thời giờ cho đức Thế Tôn hay rằng: "Bạch ngài, đã
đến giờ, bữa ăn đã chuẩn bị xong."
- Xin vâng, thưa ngài.
Rồi chàng thanh niên con trai bà Sañjikā vâng lời vương tử Bodhi đã đi đến
gặp đức Thế Tôn, đến rồi đã thông báo thời giờ cho đức Thế Tôn hay rằng:
- Bạch ngài Gotama, đã đến giờ, bữa ăn đã chuẩn bị xong.
[122] Sau đó, đức Thế Tôn vào buổi sáng sau khi mặc y, cầm y bát đã đi
đến trú xá của vương tử Bodhi. Vào lúc bấy giờ, vương tử Bodhi đang đứng ở mái
che của cổng ngoài chờ đợi đức Thế Tôn ngự đến. Rồi vương tử Bodhi đã nhận thấy
đức Thế Tôn đang đi đến từ đàng xa. Thấy rồi, vương tử Bodhi đã từ chỗ ấy đi ra
đảnh lễ và tôn vinh đức Thế Tôn xong đi đến lâu đài Kokanada. Khi ấy, đức Thế
Tôn đã đứng lại cạnh bậc cấp ở ngoài cùng. Và vương tử Bodhi đã bạch với đức Thế
Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy bước lên tấm vải, xin đấng Thiện Thệ hãy
bước lên tấm vải, việc ấy sẽ đem lại cho con sự lợi ích và an vui lâu dài.
Nghe nói vậy đức Thế Tôn vẫn im lặng.
Đến lần thứ nhì, …(như trên)…
Đến lần thứ ba, vương tử Bodhi đã bạch với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy bước lên tấm vải, xin đấng Thiện Thệ hãy
bước lên tấm vải, việc ấy sẽ đem lại cho con sự lợi ích và an vui lâu dài.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã ra hiệu bằng mắt cho đại đức ānanda. Khi ấy, đại đức
Ānanda đã nói với vương tử Bodhi điều này:
- Thưa vương tử, xin hãy gấp tấm vải lại. Đức Thế Tôn sẽ không bước lên tấm
vải được trải ra. Đấng Như Lai luôn có lòng thương tưởng đến chúng sanh cùng
khổ.
Sau đó, vương tử Bodhi đã bảo gấp lại các tấm vải và cho sắp đặt chỗ ngồi ở
trên lầu lâu đài Kokanada. Và đức Thế Tôn đã bước lên lâu đài Kokanada rồi ngồi
xuống chỗ ngồi đã được sắp đặt cùng với hội chúng tỷ-kheo.
Rồi vương tử Bodhi đã tự tay làm cho hội chúng tỷ-kheo có đức Phật dẫn đầu
được hài lòng, được đầy đủ bằng thức ăn thượng hạng cứng mềm, rồi đã (đến) ngồi
xuống một bên đức Thế Tôn khi ấy đã thọ thực xong, bàn tay và bình bát đã được
rửa. Đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho
vương tử Bodhi đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại rồi từ chỗ ngồi đã đứng dậy
và ra đi.
[123] Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy sau khi
thuyết Pháp thoại đã bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, không nên bước lên những tấm vải được trải ra. Vị nào bước
lên thì phạm tội tác ác (dukkata).
[124] Vào lúc bấy giờ, có một phụ nữ bị sẩy thai đã thỉnh các tỷ-kheo
đến rồi trải ra một tấm vải và bạch điều này:
- Bạch các ngài, xin các ngài hãy bước lên tấm vải.
Các tỷ-kheo ngần ngại đã không bước lên.
- Bạch các ngài, xin các ngài hãy bước lên tấm vải để đem lại sự may mắn.
Các tỷ-kheo ngần ngại đã không bước lên.
Khi đó, người phụ nữ ấy đã phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các đại đức khi được thỉnh cầu để đem lại sự may mắn lại không bước
lên tấm vải được trải ra?
Các tỷ-kheo đã nghe người phụ nữ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các
tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, gia chủ tin vào sự may mắn. Này các tỷ-kheo, ta cho phép
bước lên tấm vải được trải ra khi được thỉnh cầu để đem lại sự may mắn.
[125] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ngần ngại không dám bước lên tấm
vải chùi chân. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép bước lên tấm vải chùi chân.
Dứt Tụng phẩm thứ nhì.
[126] Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn sau khi ngự tại xứ Bhaggā được như
ý đã lên đường đi đến thành Sāvatthi. Tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành
Sāvatthi. Ở đó, trong thành Sāvatthi, đức Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên (Jetavana), tu
viện của ông Cấp Cô Độc (Anāthapindika). Lúc bấy giờ, Visākhā mẹ của Migāra
mang theo một cái chum, một vật chà chân (bằng đất nung), và một cái chỗi đi đến
gặp đức Thế Tôn; sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi
đã ngồi xuống một bên, Visākhā mẹ của Migāra đã bạch với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn thọ nhận cái chum, vật chà chân (bằng đất nung),
và cái chỗi của con; việc ấy sẽ đem lại cho con sự lợi ích và an vui lâu dài.
Đức Thế Tôn đã không thọ lãnh vật chà chân (bằng đất nung). Sau đó, đức Thế
Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Visākhā mẹ
của Migāra bằng bài Pháp thoại. Rồi Visākhā mẹ của Migāra sau khi đã được đức
Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp
thoại đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh,
rồi ra đi.
[127] Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã thuyết
Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) cái chum và cái chỗi. Này các
tỷ-kheo, không nên sử dụng vật chà chân (bằng đất nung). Vị nào sử dụng thì phạm
tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) ba vật chà chân:
cát, sỏi, và đá bọt biển.
[128] Rồi Visākhā mẹ của Migāra mang theo một cái quạt và một cái chỗi
quét bụi đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Visākhā mẹ của Migāra đã bạch với đức
Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn thọ nhận cái quạt và cái chỗi quét bụi của con;
việc ấy sẽ đem lại cho con sự lợi ích và an vui lâu dài.
Đức Thế Tôn đã thọ lãnh cái quạt và cái chỗi quét bụi. Sau đó, đức Thế Tôn đã
chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Visākhā mẹ của
Migāra bằng bài Pháp thoại. …(như trên)… , hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra
đi.
[129] Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã thuyết
Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) cái quạt và cái chỗi quét bụi.
[130] Vào lúc bấy giờ, một cái quạt đuổi muỗi đã phát sanh đến hội
chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) cái quạt đuổi muỗi.
Một cái quạt đuôi bò rừng đã phát sanh đến. Các vị đã trình sự việc ấy lên
đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng quạt đuôi bò rừng. Vị nào sử dụng thì
phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) ba loại quạt:
làm bằng tre, làm bằng một loại rễ cây có mùi thơm (usīramayam-), làm bằng lông
đuôi chim công.
[131] Vào lúc bấy giờ, một cái ô dù được phát sanh đến hội chúng. Các
vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) ô dù.
[132] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư mang ô dù đi lại đó
đây. Lúc bấy giờ, có một cận sự nam đi dạo công viên cùng với nhiều tín đồ của
ngoại đạo loã thể. Khi ấy, các tín đồ của ngoại đạo loã thể đã thấy từ đàng xa
các tỷ-kheo nhóm Lục Sư mang ô dù đang đi lại; thấy rồi đã nói với vị cận sự nam
ấy điều này:
- Này quý vị, các bậc khả kính kia của quý vị mang ô dù đang đi đến kìa,
giống như một nhóm quan đại thần vậy.
- Này quý vị, các vị ấy không phải là tỷ-kheo, họ là du sĩ ngoại đạo.
- Là tỷ-kheo, không phải là tỷ-kheo. Những người ấy đã đánh cá với nhau.
Sau đó, khi đi lại gần vị cận sự nam ấy biết được rõ ràng nên mới phàn nàn,
phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các đại đức lại mang ô dù đi lại đó đây?
Các tỷ-kheo đã nghe được vị cận sự nam ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Rồi
các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, nghe nói …(như trên)… có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các
tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, không nên che ô dù. Vị nào che thì phạm tội tác ác
(dukkata).
[133] Vào lúc bấy giờ, có một tỷ-kheo bị bệnh. Tỷ-kheo ấy không có che
ô dù không được thoải mái. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép tỷ-kheo bệnh được che ô dù.
[134] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo (biết rằng): "Tỷ-kheo bệnh được
đức Thế Tôn cho phép che ô dù, còn chúng ta không có bệnh," rồi ngần ngại
khi che ô dù ở trong tu viện hoặc ở vùng phụ cận tu viện. Các vị đã trình sự
việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép tỷ-kheo không có bệnh được che ô dù ở trong tu
viện hoặc ở vùng phụ cận tu viện.
[135] Vào lúc bấy giờ, có một vị tỷ-kheo buộc bình bát bằng một sợi
dây rồi treo ở cây gậy và rời khỏi cổng của một ngôi làng nọ vào lúc hoàng hôn.
Dân chúng (nói với nhau rằng): "Này các vị, gã trộm kia đang đi đến, gươm của
gã lấp lánh đó" rồi đã theo dõi, giữ lại, đến khi nhận biết rõ ràng, đã thả
cho đi. Sau đó, tỷ-kheo ấy khi đi đến tu viện đã kể lại sự việc ấy cho các
tỷ-kheo.
- Này sư đệ, có phải sư đệ mang theo gậy và dây?
- Bạch đại đức, đúng vậy.
Các tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai
rằng:
- Vì sao vị tỷ-kheo lại mang theo gậy và dây?
Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các
tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, không nên mang theo gậy và dây. Vị nào mang theo thì phạm
tội tác ác (dukkata).
[136] Vào lúc bấy giờ, có tỷ-kheo bị bệnh không có cây gậy không thể
đi lại đó đây. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy đến
tỷ-kheo bệnh.
[137] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Vị tỷ-kheo bệnh cần đi
đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão,
ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Bạch các ngài, tôi bị bệnh không có cây gậy không thể đi lại. Bạch các
ngài, tôi cầu xin hội chúng sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy.
Nên cầu xin thêm lần thứ nhì. Nên cầu xin thêm lần thứ ba.
[138] Hội chúng cần được thông báo bởi tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng
lực:
- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo tên (như vầy) bị
bệnh không có cây gậy không thể đi lại. Vị ấy cầu xin hội chúng sự đồng ý về
việc (sử dụng) gậy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban
cho sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy đến tỷ-kheo tên (như vầy). Đây là lời đề
nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo tên (như vầy) bị
bệnh không có cây gậy không thể đi lại. Vị ấy cầu xin hội chúng sự đồng ý về
việc (sử dụng) gậy. Hội chúng ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy đến
tỷ-kheo tên (như vầy). Đại đức nào thỏa thuận với việc ban cho sự đồng ý về việc
(sử dụng) gậy đến tỷ-kheo tên (như vầy), xin im lặng; vị nào không thỏa thuận,
có thể nói lên.
Hội chúng đã ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy đến tỷ-kheo tên (như
vầy). Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là
như vậy.
[139] Vào lúc bấy giờ, có một tỷ-kheo bị bệnh không có sợi dây không
thể mang bình bát. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) sợi dây
đến tỷ-kheo bệnh.
[140] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Vị tỷ-kheo bệnh cần đi
đến gặp hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng
lão, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Bạch các ngài, tôi bị bệnh không có sợi dây không thể mang bình bát. Bạch
các ngài, tôi cầu xin hội chúng sự đồng ý về việc (sử dụng) sợi dây.
Nên cầu xin thêm lần thứ nhì. Nên cầu xin thêm lần thứ ba.
[141] Hội chúng cần được thông báo bởi tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng
lực:
- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo tên (như vầy) bị
bệnh không có sợi dây không thể mang bình bát. Vị ấy cầu xin hội chúng sự đồng ý
về việc (sử dụng) sợi dây. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng
nên ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) sợi dây đến tỷ-kheo tên (như vầy). Đây
là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo tên (như vầy) bị
bệnh không có sợi dây không thể mang bình bát. Vị ấy cầu xin hội chúng sự đồng ý
về việc (sử dụng) sợi dây. Hội chúng ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) sợi dây
đến tỷ-kheo tên (như vầy). Đại đức nào thỏa thuận với việc ban cho sự đồng ý về
việc (sử dụng) sợi dây đến tỷ-kheo tên (như vầy), xin im lặng; vị nào không thỏa
thuận, có thể nói lên.
Hội chúng đã ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) sợi dây đến tỷ-kheo tên (như
vầy). Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là
như vậy.
[142] Vào lúc bấy giờ, có một tỷ-kheo bị bệnh không có cây gậy không
thể đi lại đó đây và không có sợi dây không thể mang bình bát. Các vị đã trình
sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy và dây
đến tỷ-kheo bệnh.
Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Vị tỷ-kheo bệnh cần đi đến gặp hội
chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, ngồi
chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Bạch các ngài, tôi bị bệnh không có cây gậy không thể đi lại đó đây, không
có sợi dây không thể mang bình bát. Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng sự đồng
ý về việc (sử dụng) gậy và dây.
Nên cầu xin thêm lần thứ nhì. Nên cầu xin thêm lần thứ ba.
[143] Hội chúng cần được thông báo bởi tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng
lực:
- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo tên (như vầy) bị
bệnh không có cây gậy không thể đi lại đó đây, không có sợi dây không thể mang
bình bát. Vị ấy cầu xin hội chúng sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy và dây. Nếu là
thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự đồng ý về việc (sử
dụng) gậy và dây đến tỷ-kheo tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo tên (như vầy) bị
bệnh không có cây gậy không thể đi lại đó đây, không có sợi dây không thể mang
bình bát. Vị ấy cầu xin hội chúng sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy và dây. Hội
chúng ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy và dây đến tỷ-kheo tên (như vầy).
Đại đức nào thỏa thuận với việc ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy và dây
đến tỷ-kheo tên (như vầy), xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.
Hội chúng đã ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy và dây đến tỷ-kheo tên
(như vầy). Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc
này là như vậy.
[144] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo có tật nhai lại thức ăn. Vị ấy
nhai đi nhai lại (thức ăn) rồi nuốt xuống. Các tỷ-kheo phàn nàn, phê phán, chê
bai rằng:
- Vị tỷ-kheo này ăn vật thực lúc quá ngọ.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo này đã sanh vào giống trâu bò trước đây không
lâu. Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc nhai lại đối với vị có tật nhai lại. Thêm
nữa, này các tỷ-kheo, sau khi ợ lên ở cửa miệng (vật đã ăn vào) không nên nuốt
xuống. Vị nào nuốt xuống thì nên được xử lý theo Pháp.
[145] Vào lúc bấy giờ, có một nhóm người dâng một bữa ăn đến hội
chúng. Nhiều hột cơm đã bị rơi vãi trong phòng ăn. Dân chúng phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- Vì sao các sa-môn Thích-tử khi được dâng cơm lại không thọ lãnh một cách
thận trọng, vì mỗi một hột cơm được tạo nên bởi trăm công sức?
Các tỷ-kheo đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau
đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...
- Này các tỷ-kheo, trong khi được dâng cúng ta cho phép tự thân nhặt lên và
sử dụng vật (thức ăn) bị rơi xuống. Điều ấy là lý do gì? Này các tỷ-kheo, bởi vì
vật (thức ăn) ấy được các thí chủ để lại.
[146] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo đi khất thực với các móng tay dài
. Một người đàn bà thấy vậy đã nói với vị tỷ-kheo ấy điều này:
- Ngài ơi, đến đây và làm việc lứa đôi đi.
- Thôi đi, này bà chị, việc ấy không được đúng đắn.
- Ngài ơi, nếu ngài không làm, thì giờ đây tôi sẽ cào cấu khắp mình mẩy bằng
các móng tay của tôi rồi làm ra vẻ giận dữ (la lên): "Tỷ-kheo này làm nhục
tôi."
- Này bà chị, bà chị nên biết điều.
Rồi người đàn bà ấy đã cào cấu khắp mình mẩy bằng các móng tay của mình và
làm ra vẻ giận dữ (la lên): "Tỷ-kheo này làm nhục tôi." Dân chúng chạy
lại và bắt giữ vị tỷ-kheo ấy. Rồi dân chúng đã nhìn thấy da và máu nơi móng tay
của người đàn bà ấy; thấy vậy, (biết được rằng): "Việc này do chính người đàn
bà này gây ra, vị tỷ-kheo không phải là người làm;" và họ đã thả tỷ-kheo ấy.
Sau đó, vị tỷ-kheo đã đi đến tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỷ-kheo.
- Này sư đệ, có phải sư đệ để móng tay dài không vậy?
- Bạch đại đức, đúng vậy.
Các tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai
rằng:
- Vì sao vị tỷ-kheo lại để móng tay dài?
Rồi các tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên để móng tay dài. Vị nào để dài thì phạm tội tác
ác (dukkata).
[147] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo xé móng tay bằng móng tay, cắn móng
tay bằng miệng, mài móng tay ở tường. Các ngón tay bị đau. Các vị đã trình sự
việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc cắt móng tay.
Các vị cắt móng tay làm chảy máu. Các ngón tay bị đau. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép cắt móng tay đến sát phần thịt.
[148] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư bảo người trau chuốt
hai mươi (ngón tay và chân). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên bảo (người khác) trau chuốt hai mươi (ngón tay
và chân). Vị nào bảo (người khác) trau chuốt thì phạm tội tác ác (dukkata). Này
các tỷ-kheo, ta cho phép lấy đất ra (từ các móng).
[149] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư để tóc dài. Các vị đã
trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo có khả năng cắt tóc cho nhau không?
- Thưa có khả năng, bạch Thế Tôn.
Rồi đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỷ-kheo
lại …(như trên)… nói với các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) dao cạo, đá mài dao cạo, bao đựng
dao cạo, miếng vải len, tất cả vật dụng liên quan đến dao cạo.
[150] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư tỉa râu, để râu dài ra,
để chòm râu dưới cằm, để râu thành bốn góc, tạo dáng lông ngực, tạo hình lông
bụng, làm đứng giống ngà voi, nhổ lông ở trên cơ thể. Dân chúng phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên tỉa râu để râu dài ra, để chòm râu dưới cằm, để
râu thành bốn góc, tạo dáng lông ngực, tạo hình lông bụng, làm đứng giống ngà
voi, làm sạch lông ở trên cơ thể. Vị nào nhổ thì phạm tội tác ác (dukkata).
[151] Vào lúc bấy giờ, có tỷ-kheo bị vết thương ở trên cơ thể. Thuốc
không thể dính vào. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm sạch lông ở trên cơ thể vì lý do bệnh.
[152] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư cắt tóc bằng kéo. Dân
chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên cắt tóc bằng kéo. Vị nào cắt thì phạm tội tác ác
(dukkata).
[153] Vào lúc bấy giờ, có tỷ-kheo bị vết thương ở trên đầu, không thể
cạo đầu bằng dao cạo. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép cắt tóc bằng kéo vì lý do bệnh.
[154] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo để lông mũi dài. Dân chúng phàn
nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ thờ phụng quỷ thần vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên để lông mũi dài. Vị nào để thì phạm tội tác ác
(dukkata).
[155] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo lấy lông mũi ra với mảnh sành hoặc
bằng sáp ong. Hai lỗ mũi bị đau. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) cái nhíp (nhổ lông).
[156] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư nhổ tóc bạc. Dân chúng
phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên nhổ tóc bạc. Vị nào nhổ thì phạm tội tác ác
(dukkata).
[157] Vào lúc bấy giờ, có một tỷ-kheo có hai lỗ tai bị ráy tai
che bít. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) đồ lấy ráy tai.
[158] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư sử dụng các đồ lấy ráy
tai loại đặc biệt: làm bằng bạc, làm bằng vàng. Dân chúng phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng các đồ lấy ráy tai loại đặc biệt. Vị nào
sử dụng thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép loại làm
bằng xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, làm bằng ống sậy, làm bằng tre,
làm bằng gỗ, làm bằng nhựa cây, làm bằng trái cây, làm bằng đồng, làm bằng vỏ
sò.
[159] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đã tích trữ nhiều loại
đồ vật làm bằng đồng thau và đồ vật làm bằng đồng đỏ. Dân chúng đi đến tu viện
dạo quanh thấy vậy mới phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các sa-môn Thích tử lại tích trữ nhiều loại đồ vật làm bằng đồng
thau và đồ vật làm bằng đồng đỏ giống như nhà buôn bán đồ đồng vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên tích trữ nhiều loại đồ vật làm bằng đồng thau và
đồ vật làm bằng đồng đỏ. Vị nào tích trữ thì phạm tội tác ác (dukkata).
[160] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ngần ngại (sử dụng) thuốc cao, que
bôi thuốc cao, đồ lấy ráy tai, vật để buộc lại. Các vị đã trình sự việc ấy lên
đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) thuốc cao, que bôi thuốc cao, đồ lấy
ráy tai, và vật để buộc lại.
[161] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư ngồi kê mông trên y hai
lớp (saṅghāti). Các lớp vải của y hai lớp bị hư hỏng. Các vị đã trình sự việc
ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên ngồi kê mông trên y hai lớp (saṅghāti). Vị nào
ngồi thì phạm tội tác ác (dukkata).
[162] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo bị bệnh. Không có vải băng bó, vị
ấy không được thoải mái. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) vải băng bó.
Khi ấy, các tỷ-kheo đã suy nghĩ rằng: "Làm thể nào để thực hiện vải băng
bó đây?" Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) khung dệt, con thoi, sợi dệt, kim
dệt, và các vật dụng của khung dệt.
[163] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo đi vào làng khất thực không buộc
dây thắt lưng. Trên đường đi, y nội (antaravāsaka) của vị ấy bị tuột xuống. Dân
chúng thấy được đã kêu ồ lên. Vị tỷ-kheo đã bị xấu hổ. Vị tỷ-kheo ấy đi đến tu
viện và đã trình sự việc ấy đến các tỷ-kheo. Các vị tỷ-kheo đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đi vào làng không buộc dây thắt lưng. Vị nào đi
vào thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép dây thắt lưng.
[164] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư sử dụng các dây thắt
lưng loại đặc biệt: loại do nhiều sợi bện lại, loại hình đầu rắn nước, loại có
bện cái trống nhỏ, loại giống như dây xích. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê
bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)…Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng các dây thắt lưng loại đặc biệt: loại do
nhiều sợi bện lại, loại hình đầu rắn nước, loại có bện cái trống nhỏ, loại giống
như dây xích. Vị nào sử dụng thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta
cho phép (sử dụng) hai loại dây thắt lưng: loại bằng vải, và loại hai đầu được
thắt lại.
Các mép của dây thắt lưng bị sờn …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) loại có bện cái trống nhỏ, loại
giống như dây xích.
Đầu chóp của dây thắt lưng bị sờn …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép khâu tròn (hai đầu chóp), thắt nút (hai đầu
chóp).
Hai đầu chóp của dây thắt lưng đã khâu lại bị sờn …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) khóa thắt lưng.
[165] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư sử dụng những loại khóa
thắt lưng đặc biệt: làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng những loại khóa thắt lưng đặc biệt. Vị
nào sử dụng thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép những
loại khóa thắt lưng làm bằng xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, làm bằng
ống sậy, …(như trên)…, làm bằng vỏ sò, làm bằng sợi chỉ.
[166] Vào lúc bấy giờ, đại đức Ānanda đắp các y mỏng nhẹ đi vào làng
khất thực. Các y của vị ấy đã bị một cơn gió xoáy tốc lên. Khi đi về tu viện đại
đức Ānanda đã trình sự việc ấy đến các tỷ-kheo. Các tỷ-kheo đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) hột nút, cái nơ buộc.
[167] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư sử dụng những hột nút
đặc biệt: làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai
rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng những hột nút đặc biệt. Vị nào sử dụng
thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm bằng xương, làm
bằng ngà răng, làm bằng sừng, làm bằng ống sậy, làm bằng tre, làm bằng gỗ, làm
bằng nhựa cây, làm bằng trái cây, làm bằng đồng, làm bằng vỏ sò, làm bằng sợi
chỉ.
[168] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo cài hột nút, cài cái nơ buộc ở trên
y ca-sa. Y ca-sa bị sờn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) hột nút hình dẹp, cái nơ buộc hình
dẹp.
Các vị cài hột nút hình dẹp, cài cái nơ buộc hình dẹp ở góc chéo (của y
ca-sa). Phần giữa bị mở ra. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép cài hột nút hình dẹp ở góc chéo (của y ca-sa),
cài cái nơ buộc hình dẹp sau khi lùi vào bảy hoặc tám lóng tay.
[169] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư mặc vải lót bên trong
của kẻ tại gia: loại quấn như vòi voi, loại vắt lên như đuôi cá, loại để hở bốn
góc, loại vải có tua, loại vải thật dài. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai
rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên mặc vải lót bên trong của kẻ tại gia: loại quấn
như vòi voi, loại vắt lên như đuôi cá, loại để hở bốn góc, loại vải có tua, loại
vải thật dài. Vị nào mặc thì phạm tội tác ác (dukkata).
[170] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư khóac loại vải choàng
bên ngoài của kẻ tại gia. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên khóac loại vải choàng bên ngoài của kẻ tại gia.
Vị nào khóac thì phạm tội tác ác (dukkata).
[171] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư mặc váy
(sam-velliyam-). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như phu mang vác của đức vua vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên mặc váy. Vị nào mặc thì phạm tội tác ác
(dukkata).
[172] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đeo túi quàng ở
hai vai. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như phu mang vác của đức vua vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đeo túi quàng ở hai vai. Vị nào đeo thì phạm tội
tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép túi đeo một bên vai, túi hai
người xách, vật đội trên đầu, vật mang ở vai, vật mang ở hông, vật được treo
lên.
[173] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo không nhai gỗ chà răng
(dantakattham-). Miệng trở nên có mùi hôi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, đây là năm điều bất lợi trong việc không nhai gỗ chà răng:
không có ích lợi cho mắt, miệng trở nên có mùi hôi, vị giác không tinh tế, mật
và đờm che lấp thức ăn, vị ấy không hứng thú với thức ăn. Này các tỷ-kheo, đây
là năm điều bất lợi trong việc không nhai gỗ chà răng.
Này các tỷ-kheo, đây là năm điều lợi ích trong việc nhai gỗ chà răng: có ích
lợi cho mắt, miệng không có mùi hôi, vị giác được tinh tế, mật và đờm che không
che lấp thức ăn, vị ấy hứng thú với thức ăn. Này các tỷ-kheo, đây là năm điều
lợi ích trong việc nhai gỗ chà răng.
[174] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư nhai gỗ chà răng loại
dài, các vị còn đánh các vị sa-di bằng chính những cây gỗ ấy. Các vị đã trình sự
việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên nhai gỗ chà răng loại dài. Vị nào nhai thì phạm
tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép gỗ chà răng dài tối đa tám
ngón tay, không nên đánh sa-di bằng cây gỗ ấy. Vị nào đánh thì phạm tội tác ác
(dukkata).
[175] Vào lúc bấy giờ, có tỷ-kheo trong khi nhai cây gỗ chà răng quá
ngắn nên bị vướng ở cổ họng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên nhai gỗ chà răng quá ngắn. Vị nào nhai thì phạm
tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép gỗ chà răng ngắn tối thiểu
bốn ngón tay.
[176] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đốt đám lửa lớn.
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như thợ đốt lò vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đốt đám lửa lớn. Vị nào đốt thì phạm tội tác ác
(dukkata).
[177] Vào lúc bấy giờ, các tu viện có cỏ rậm rạp, khi đám lửa lớn phát
cháy, các tu viện cũng bắt lửa. Các tỷ-kheo ngần ngại không tạo nên ngọn lửa
nghịch chiều để bảo vệ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, khi đám lửa lớn phát cháy ta cho phép tạo nên ngọn lửa
nghịch chiều để thực hiện sự bảo vệ.
[178] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư trèo lên cây, chuyền từ
cây này sang cây khác. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như loài khỉ vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên trèo lên cây. Vị nào trèo lên thì phạm tội tác
ác (dukkata).
[179] Vào lúc bấy giờ, trong xứ sở Kosala một tỷ-kheo nọ đang trên
đường đi đến thành Sāvatthi đã bị voi rượt đuổi. Khi đó, tỷ-kheo ấy đã chạy đến
gần một gốc cây nhưng ngần ngại đã không trèo lên cây. Con voi ấy đã đi sang
hướng khác. Vị tỷ-kheo ấy khi đi đến thành Sāvatthi đã trình sự việc ấy đến các
tỷ-kheo. Các vị tỷ-kheo đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép trèo lên cây với tầm cao của một con người khi
có việc cần làm, và đến tầm cao cần thiết trong những lúc hiểm nguy.
[180] Vào lúc bấy giờ, hai tỷ-kheo tên Metthakokuttha là
hai anh em xuất thân giòng dõi Bà La Môn và nói năng nhã nhặn với âm điệu ngọt
ngào
[Metthakokuttha được thấy ở Tam Tạng của Thái Lan, còn ở Tam Tạng được in
bởi Pali Text Society là Yamelu và Tekula]. Họ đã đi đến gặp đức Thế
Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đã ngồi
xuống một bên, họ đã bạch với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, hiện nay các tỷ-kheo có tên gọi khác nhau, giòng dõi khác nhau,
giai cấp khác nhau, gia tộc khác nhau đã xuất gia. Các vị ấy đang làm hỏng lời
dạy của đức Phật bằng tiếng địa phương của chính họ. Bạch ngài, ngài hãy để
chúng con chuyển đổi lời dạy của đức Phật sang dạng có niêm luật (chandaso).
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: …(như trên)…
- Này hai kẻ rồ dại kia, vì sao hai ngươi lại nói như vầy: "Bạch ngài,
ngài hãy để chúng con chuyển đổi lời dạy của đức Phật sang dạng có niêm luật"?
Này hai kẻ rồ dại kia, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có
đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, không nên hoán chuyển lời dạy của chư Phật sang dạng có
niêm luật. Vị nào hoán chuyển thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo,
ta cho phép học tập lời dạy của đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản
thân.
[181] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư học tập việc
giải đoán điềm lành dữ. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các tỷ-kheo đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai …(như
trên)… Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự kiện ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỷ-kheo, kẻ chuyên chú trong việc giải đoán điềm lành dữ có thể đạt
được sự tiến triển, sự tăng trưởng, sự lớn mạnh trong Pháp và Luật này không?
- Bạch ngài, điều ấy không thể nào được.
- Hoặc kẻ chuyên chú trong Pháp và Luật này có thể học tập việc giải đoán
điềm lành dữ?
- Bạch ngài, điều ấy không thể nào được.
- Này các tỷ-kheo, không nên học tập việc giải đoán điềm lành dữ. Vị nào học
tập thì phạm tội tác ác (dukkata).
[182] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư dạy việc giải đoán điềm
lành dữ. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên dạy việc giải đoán điềm lành dữ. Vị nào dạy thì
phạm tội tác ác (dukkata).
[183] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư học tập kiến thức nhảm
nhí. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên học tập kiến thức nhảm nhí. Vị nào học tập thì
phạm tội tác ác (dukkata).
[184] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư dạy kiến thức nhảm nhí.
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên dạy kiến thức nhảm nhí. Vị nào dạy thì phạm tội
tác ác (dukkata).
[185] Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khi đang giảng Pháp đến một hội
chúng đông đảo tụ quanh đã hắt hơi. Các tỷ-kheo đã nói lớn tiếng rằng: "Bạch
ngài, mong rằng đức Thế Tôn sẽ tồn tại, mong rằng đấng Thiện Thệ sẽ tồn tại."
Âm thanh ấy đã vang lên giữa buổi giảng Pháp. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với các
tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, khi một ai hắt hơi được nói rằng: "Mong rằng người sẽ
tồn tại," do duyên ấy người ấy có thể tồn tại hay có thể chết?
- Bạch ngài, điều ấy không thể nào được.
- Này các tỷ-kheo, khi một ai hắt hơi không nên nói rằng: "Mong rằng người
sẽ tồn tại." vị nào nói thì phạm tội tác ác (dukkata).
[186] Vào lúc bấy giờ, khi các tỷ-kheo hắt hơi, dân chúng nói rằng:
- Bạch ngài, mong rằng ngài sẽ tồn tại.
Các tỷ-kheo ngần ngại không đáp lại. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai
rằng:
- Vì sao các sa-môn Thích tử không đáp lại khi được nói rằng: "Bạch ngài,
mong rằng ngài sẽ tồn tại."
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, người tại gia mong điều tốt lành. Này các tỷ-kheo, khi
được nói rằng: "Bạch ngài, mong rằng ngài sẽ tồn tại," ta cho phép đáp
lại: "Mong rằng người sẽ sống lâu."
[187] Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đang ngồi giảng Pháp đến một hội
chúng đông đảo vây quanh. Có vị tỷ-kheo vừa mới ăn tỏi xong. Vị ấy đã ngồi ở một
chỗ riêng biệt (nghĩ rằng): "Chớ để các tỷ-kheo bị khuấy rối." Đức Thế
Tôn đã thấy vị tỷ-kheo ấy ngồi ở một chỗ riêng biệt. Thấy vậy, ngài đã hỏi các
tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, vì sao tỷ-kheo ấy ngồi ở một chỗ riêng biệt vậy?
- Bạch ngài, vị ấy vừa mới ăn tỏi (nghĩ rằng): "Chớ để các tỷ-kheo bị
khuấy rối" nên đã ngồi ở một chỗ riêng biệt.
- Này các tỷ-kheo, một người sau khi ăn một vật cần phải ăn có nên tránh né
bài giảng Pháp như thế này không?
- Bạch ngài, điều ấy không thể nào được.
- Này các tỷ-kheo, không nên ăn tỏi. Vị nào ăn thì phạm tội tác ác
(dukkata).
[188] Vào lúc bấy giờ, đại đức Sāriputta bị bệnh đau bụng gió. Khi ấy,
đại đức Mahāmoggallāna đã đi đến gặp đại đức Sāriputta, đến rồi đã hỏi đại đức
Sāriputta rằng:
- Này đại đức Sāriputta, trước đây khi đại đức bị bệnh đau bụng gió, vật gì
làm cho dễ chịu?
- Tỏi làm tôi dễ chịu.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ăn tỏi vì lý do bệnh.
[189] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đã tiểu tiện đó đây trong tu viện.
Tu viện trở nên dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép tiểu tiện ở khu vực riêng biệt.
Tu viện trở nên có mùi hôi thối. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) lu nước tiểu.
Các vị ngồi xuống một cách khó khăn khi tiểu tiện. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) máng chuyền nước tiểu.
Máng chuyền nước tiểu ở nơi trống trải. Các tỷ-kheo hổ thẹn không dám tiểu
tiện. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép bao quanh lại bằng ba loại tường chắn: tường
chắn bằng gạch, tường chắn bằng đá, tường chắn bằng gỗ.
Lu nước tiểu không được đậy lại nên bốc mùi hôi. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) nắp đậy.
[190] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đã đại tiện đó đây
trong tu viện. Tu viện trở nên dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép đại tiện ở một khu vực riêng biệt.
Tu viện trở nên có mùi hôi thối. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) hố phân.
Thành hố phân bị sụp xuống. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (xây dựng) ba loại nền móng: nền móng bằng
gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Hố phân có nền thấp nên bị ngập nước. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền móng bằng gạch,
nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn khi trèo lên …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ba loại cầu thang: cầu thang gạch, cầu thang
đá, cầu thang gỗ.
Các vị bị té khi bước lên (cầu thang). …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
Ngồi ở phía trong, các vị bị té khi đại tiện. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép xây bằng phẳng, làm một cái lỗ ở giữa rồi đại
tiện.
Các vị ngồi xuống một cách khó khăn khi đại tiện. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) máng chuyền phân.
Các vị đã tiểu tiện ra ở bên ngoài. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) rãnh dẫn nước tiểu.
Gỗ chùi không có. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) gỗ chùi.
Thùng chứa đồ chùi không có. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) thùng chứa đồ chùi.
Hố phân không được đậy lại nên bốc mùi hôi. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) nắp đậy.
[191] Các vị trong khi đại tiện ở ngoài trời đã bị mệt mỏi vì lạnh và
nóng. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) nhà tiêu.
Nhà tiêu không có cửa. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) cửa, trụ cửa, rãnh xoay, chốt
xoay, tay nắm, chốt gài, đinh khóa chốt, chốt phụ, lỗ khóa, lỗ để xỏ dây, dây
thừng để luồn qua.
Rác cỏ và bụi bặm rơi vào trong nhà tiêu. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép che kín mái và làm (các công việc sau): tô vữa
ở trong và ở ngoài, việc sơn màu trắng, màu đen, màu đỏ, trang hoàng hình vòng
hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm
loại, sào máng y, dây treo y.
[192] Vào lúc bấy giờ, một tỷ-kheo nọ già yếu đại tiện xong trong khi
đứng dậy đã bị té. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) tay vịn.
[193] Nhà tiêu không có hàng rào. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép rào quanh bằng ba loại hàng rào: hàng rào bằng
gạch, hàng rào bằng đá, hàng rào bằng gỗ.
[194] Không có cổng ra vào. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) cổng ra vào.
Cổng ra vào không có cửa. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) cửa, trụ cửa, rãnh xoay, chốt
xoay, tay nắm, chốt gài, đinh khóa chốt, chốt phụ, lỗ khóa, lỗ để xỏ dây, dây
thừng để luồn qua.
Rác cỏ và bụi bặm rơi vào trong cổng ra vào. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép che kín mái và làm (các công việc sau): tô vữa
ở trong và ở ngoài, việc sơn màu trắng, màu đen, màu đỏ, trang hoàng hình vòng
hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm
loại, sào máng y, dây treo y.
Căn phòng bị ẩm ướt. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép phủ cát lên.
Các vị không thành công. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép trải đá phiến.
Nước còn đọng lại. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (làm) rãnh thoát nước.
Lu nước rửa không có. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) lu nước rửa.
Gáo múc nước để rửa không có. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) gáo múc nước để rửa.
Các vị ngồi xuống một cách khó khăn khi rửa. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) máng nước để rửa.
Máng nước để rửa ở nơi trống trải. Các tỷ-kheo hổ thẹn không dám rửa. …(như
trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (xây dựng) ba loại tường chắn để bao quanh
lại: tường chắn bằng gạch, tường chắn bằng đá, tường chắn bằng gỗ.
Lu nước rửa không được đậy lại nên cỏ rác và bụi bặm đồng thời đồ dơ bẩn rơi
vào. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) nắp đậy.
[195] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư thực hiện những hành
động xấu xa như sau: họ trồng bông hoa hoặc bảo kẻ khác trồng, họ tưới hoặc bảo
kẻ khác tưới, họ hái hoặc bảo kẻ khác hái, họ kết lại hoặc bảo kẻ khác kết lại,
họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết một mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm
tràng hoa kết hai mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm thảm hoa, họ làm hoặc bảo kẻ
khác làm vòng hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa đội đầu, họ làm hoặc bảo
kẻ khác làm vòng hoa đeo tai, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa che ngực. Họ
đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô
gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đình tràng hoa kết một mặt,
tràng hoa kết hai mặt, thảm hoa, vòng hoa, vòng hoa đội đầu, vòng hoa đeo tai,
vòng hoa che ngực. Họ cùng với những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái
trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đình ăn chung trong một đĩa, uống
chung trong một cốc, ngồi chung trên một chiếu, nằm chung trên một giường, nằm
chung trên một nệm, nằm chung trên một khăn trải, nằm chung trên một nệm có phủ
khăn. Họ ăn sái giờ, họ uống rượu, họ đeo dây chuyền, xức nước hoa và phấn thơm,
họ nhảy múa, họ ca hát, họ đàn địch, họ vui đùa. Họ lại còn nhảy múa, ca hát,
đàn địch, vui đùa cùng với người nữ đang múa; …(như trên)… họ lại còn nhảy múa,
ca hát, đàn địch, vui đùa cùng với người nữ đang giởn hớt. Họ còn tiêu khiển cờ
tám quân, cờ mười quân, họ ném lên trên không trung, họ chơi lối sắp vòng tròn,
họ chơi lối rút quân cờ, họ chơi ném xúc xắc, họ chơi đánh gậy, họ chơi trò vẽ
bằng tay, họ chơi trò sấp ngữa, họ chơi trò thổi kèn bằng lá cây, họ chơi trò
uốn dẻo, họ chơi trò nhào lộn, họ chơi trò dùng lá cọ giả làm cối xay gió, họ
chơi trò ước lượng khoảng cách, họ chơi trò đua xe, họ thi bắn cung, họ chơi trò
đố chữ, họ chơi trò đoán ý, họ chơi trò nhái điệu bộ, họ tập cỡi voi, họ tập cỡi
ngựa, họ tập điều khiển xe, họ tập bắn cung, họ tập đao kiếm, họ chạy phía trước
voi, họ chạy phía trước ngựa, họ chạy đi chạy lại phía trước xe; họ làm bộ giận
dữ, họ siết tay nhau, họ vật lộn, họ dùng tay đánh nhau. Họ trải y ca-sa hai lớp
ở giữa nhà rồi mời cô vũ nữ rằng: "Này cô em, hãy nhảy ở đây này;" họ còn
vỗ tay tán thưởng; họ thực hiện những hành động xấu xa bằng nhiều cách.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên thực hiện những hành động xấu xa các loại. Vị
nào thực hiện thì cần được hành xử theo Pháp.
[196] Vào lúc bấy giờ, khi đại đức Uruvela Kassapa xuất gia nhiều đồ
vật bằng kim loại, đồ vật bằng gỗ, đồ vật bằng gốm sứ đã phát sanh đến hội
chúng. Khi ấy, các tỷ-kheo đã khởi ý rằng: "Đồ vật nào bằng kim loại đã được
đức Thế Tôn cho phép, đồ vật nào không được cho phép? Đồ vật nào bằng gỗ đã được
đức Thế Tôn cho phép, đồ vật nào không được cho phép? Đồ vật nào bằng gốm sứ
được đức Thế Tôn cho phép, đồ vật nào không được cho phép?" Các vị đã trình
sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy sau khi
thuyết Pháp thoại rồi đã nói với các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép tất cả đồ vật bằng kim loại ngoại trừ vũ khí;
tất cả đồ vật bằng gỗ ngoại trừ ghế trường kỷ, phản gỗ, bát bằng gỗ, giày dép
bằng gỗ; tất cả đồ vật bằng gốm sứ ngoại trừ đồ chà chân và loại lu lớn.
Dứt Chương các Tiểu Sự là chương thứ năm.
Tóm lược chương này:
[197]
Ở thân cây, trụ đá,
và ở trên tường nhà,
tấm phản, cây kỳ cọ,
chuổi hột, (cọ) lẫn nhau,
cây chà lưng, bệnh ghẻ,
và có vị già cả,
dùng tay như lệ thường.
Hoa tai, hoa dạng chuỗi,
không mang dây chuyền cổ,
ở hông, vòng, vòng thân,
vòng ở tay, đeo nhẫn,
tóc dài, (dùng) lược chải,
vật đầu rắn, bàn tay,
(thoa) sáp ong, dầu nước,
giương soi, và chậu nước,
(thoa) dầu, và chà xát,
thoa phấn, họ tô điểm
và vẽ màu ở thân,
và tô màu ở mặt,
rồi ở cả hai nơi,
bệnh ở nơi con mắt,
và ở nơi đỉnh núi,
sự kéo dài, âm điệu,
(áo khóac) ở bên ngoài.
Với các miếng xoài nhỏ,
con rắn, vị cắt đi,
và khúc gỗ đàn hương,
các chân bát đặc biệt,
bằng vàng, bị dày cộm,
bị lỏng chỏng, nhiều loại,
bị hư hỏng, mùi hôi,
phơi nắng, họ làm vỡ,
ở mép ghế, giường đúc,
cỏ, miếng vải, bục kê,
và ở trong giỏ mây,
túi bát, dây đeo vai,
như vậy dây bằng vải,
trên tường, và trên giường,
trên ghế, trên bắp vế,
trên cái dù, mở cửa.
Bầu đựng nước, cái hũ,
cái sọ từ thây người,
vật chứa các đồ thừa,
vị ấy xé, có cán,
bằng vàng, lông, lạt tre,
và cái ống đựng kim,
bột phấn, nghệ, bột đá,
mật, sáp ong, hộp nhỏ.
Không vuông, chỗ không phẳng,
trên mặt đất, bị thụng,
và không đạt kích thước,
dấu mực, chỉ làm dấu,
chân chưa rửa, đẫm nước,
dép, và đồ bọc ngón,
thùng chứa đồ, bao đựng
dây mang vai, đồ buộc.
Ở ngoài trời, nền thấp,
nền móng, gặp khó khăn,
vị bị té, rác cỏ,
tô vữa trong và ngoài,
màu trắng, và màu đen,
và chuẩn bị màu đỏ,
việc làm vòng, dây treo,
cây đinh răng cá kiếm,
vải trang hoàng, sào máng,
và sợi dây treo y,
vị lãnh đạo cho phép.
Họ bỏ bê ra đi,
khung y rời thành miếng,
bị bung ra, trên tường,
đi dùng bát mang theo,
túi đựng, chỉ buộc lại,
và buộc lại đôi dép,
và cái túi đựng dép,
và dây vải mang vai.
Nước uống chưa đúng luật,
trên đường, đồ lược nước,
miếng vải, theo thói thường,
có hai vị tỷ-kheo,
vị Ẩn Sĩ đã đến
thành phố Vesālī,
đồ lọc có hai lớp,
bể lọc nước, nơi ấy
ngài cho phép đồ lọc.
Các con muỗi, vật ngon,
nhiều bệnh, Jīvaka,
đường kinh hành, nhà tắm,
không bằng phẳng, nền thấp,
(cho) ba loại nền móng,
họ lại gặp khó khăn,
cầu thang, có lan can,
tay vịn, ở ngoài trời,
rác cỏ, tô hồ vữa
bên trong và bên ngoài,
màu trắng và màu đen,
và chuẩn bị màu đỏ,
việc làm vòng, dây treo,
cây đinh răng cá kiếm,
vải trang hoàng, sào máng,
và sợi dây treo y,
làm mặt đất cao hơn,
nền móng, vá cầu thang,
lan can, cửa ra vào,
trụ cửa, có rãnh xoay,
cái chốt xoay ở trên,
tay nắm, và chốt gài,
đinh khóa chốt, chốt phụ,
lỗ khóa, lỗ để luồn,
và thêm sợi dây thừng.
Mô tròn, và ống khói,
ở giữa, và đất sét
đắp mặt, máng chứa đựng,
có mùi hôi, bị phỏng,
vại chứa nước, gáo múc,
không ra được mồ hôi,
và nền bị ẩm ướt,
lau sạch, làm rãnh thoát.
Ghế ngồi, vá làm cổng,
cát, đá phiến, rãnh thoát,
ở trần, trên nền nhà,
trời đang mưa, ở đó,
ba loại vải để choàng,
giếng nước, bị sụp đổ,
bị thấp, sợi dây rừng,
dây buộc thân, cần giọt,
trục quay, cái ròng rọc,
nhiều gàu múc bị bể,
làm bằng thiếc, gỗ, da,
nhà, cỏ, và nắp đậy,
máng chứa nước, hồ tắm,
hàng rào, bị ẩm ướt,
và bằng rãnh thoát nước,
bị lạnh, hồ trữ nước,
nước ôi và mái vòng.
Bốn tháng, và họ ngủ,
thảm len, không chú nguyện,
chạm trổ, giá đỡ bát,
họ ăn chung mộ (tô),
cùng nằm, chuyện Vaddha,
chuyện Bodhi, không bước.
Cái chum, vật chà chân,
cái chỗi, loại chà chân
cát, sỏi, và bọt biển,
cái quạt, chỗi quét bụi,
quạt muỗi, quạt đuôi bò.
Ô dù, và không có,
trong tu viện, ba sự
đồng tình về sợi dây,
tật nhai lại, cơm rơi,
móng tay dài, họ cắt,
các ngón tay bị đau,
chảy máu, và cắt sát
hai mươi, để tóc dài,
dao cạo, đá mài dao,
bao đựng, miếng vải len,
họ tỉa râu, để râu,
dưới cằm, thành bốn góc,
tạo dáng lông ngực, bụng,
giống ngà voi, nhổ lông,
bệnh hoạn, kéo, vết thương,
lông dài, và mảnh sành,
tóc bạc, bị bít kín,
loại đặc biệt, đồng thau,
với thuốc cao, ngồi chỏ
và miếng vải băng bó,
sợi dệt, kim, dây lưng,
do nhiều sợi bện lại,
có hình đầu rắn nước,
bện hình cái trống nhỏ,
như dây xích, bằng vải,
và hai đầu thắt lại,
chóp, khâu tròn, thắt nút,
đầu chóp vẫn bị sờn,
và đủ loại hột nút,
lại có loại hình dẹp,
từ mép được lùi vào.
Vải lót kẻ tại gia:
loại quấn như vòi voi,
vắt đuôi cá, bốn góc,
loại có tua, thật dài,
trùm vải choàng tục gia,
mặc váy, túi hai vai,
gỗ chà răng, gậy đánh,
ở cổ họng, bị vướng,
và thêm đám lửa lớn,
đốt ngọn lửa nghịch chiều,
(trèo) cây, bởi con voi,
ngôn ngữ của bản thân,
giải đoán điềm lành dữ,
họ học rồi dạy lại,
họ nói chuyện nhảm nhí.
Ngài hắt hơi, điều lành,
và ăn (tỏi), bệnh gió,
và dơ bẩn, mùi hôi,
khó khăn, máng nước tiểu,
họ thẹn, đậy, mùi hôi,
và họ tiêu đó đây,
mùi hôi, hố chứa phân,
chúng sụp xuống, nền cao,
và nền móng, cầu thang,
lan can, và bên trong,
khó khăn, và máng chuyền,
(tiểu) ra ngoài, khe rãnh,
và gỗ chùi, thùng chứa,
và không được đậy lại.
Nhà tiêu, cửa, trụ cửa,
rãnh xoay, và chốt xoay,
tay nắm, và chốt gài,
đinh khóa chốt, chốt phụ,
lỗ khóa, và lỗ xỏ,
sợi dây, vữa trong ngoài,
màu trắng và màu đen,
việc làm vòng, dây treo,
cây đinh răng cá kiếm,
năm sợi vải, sào máng,
và sợi dây treo y.
Già, yếu đuối, tay vịn,
và ở cổng ra vào,
cũng như thế, phủ cát,
trải lót bằng đá phiến,
đọng nước, rãnh thoát nước.
Lu nước, và gáo múc,
khổ, hổ thẹn, nắp đậy.
Họ làm việc xấu xa,
được phép đồ kim loại,
trừ ra các vũ khí.
Bậc Đại Sĩ cho phép
tất cả vật bằng gỗ,
trừ trường kỷ, phản gỗ,
bát gỗ, giày dép gỗ.
Đấng Như Lai loại ra
vật chà chân, lu lớn,
còn từ bi cho phép,
tất cả vật gốm sứ.
Việc chỉ dẫn điều nào,
nếu giống điều trước đây,
điều đã được tóm tắt
ở trong phần tóm lược,
điều ấy nên biết đến
từ điều đã được dạy.
Như vậy một trăm mười
sự việc thuộc Tạng Luật
ở trong phần Tiểu Sự
sự duy trì chánh Pháp,
trợ giúp các vị tốt,
vị nắm giữ Tạng Luật
được học tập khéo léo,
tâm định tĩnh tốt đẹp,
vị thông minh, giải rõ,
đa văn, đáng cúng dường.
Dứt Chương các Tiểu Sự.
-ooOoo-