Luật Tiểu Phẩm

TẠNG LUẬT
"Vinaya Pitaka"
TIỂU PHẨM
"Cullavagga"
Tỳ Kheo Indachanda Nguyệt Thiên Dịch

TẠNG LUẬT - TIỂU PHẨM
TẬP I

III. Chương Tích Lũy Tội (Samuccayakkhandhakaṃ)

[377] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapindika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi đã phạm một tội là tội cố ý xuất tinh, không có che giấu. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi. Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy:

[378] Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu.

Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu lần thứ nhì.

Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu lần thứ ba.

[379] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đã được hội chúng ban cho tỷ-kheo Udāyi. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[380] Khi đã hoàn tất hành phạt mānatta, vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho tôi hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Tôi đã hoàn tất hành phạt mānatta, vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy giải tội cho tỷ-kheo Udāyi.

[381] Và này các tỷ-kheo, nên giải tội như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho tôi hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, tôi đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội.

Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho tôi hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, tôi đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội lần thứ nhì.

Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho tôi hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, tôi đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội lần thứ ba.

[382] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi. Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi. Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Hội chúng giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận sự giải tội cho tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi. Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Hội chúng giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận sự giải tội cho tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi. Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Hội chúng giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận sự giải tội cho tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tỷ-kheo Udāyi đã được hội chúng giải tội. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[383] Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi đã phạm một tội là tội cố ý xuất tinh, đã được che giấu một ngày. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi.

[384] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[385] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đã được hội chúng ban cho tỷ-kheo Udāyi. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[386] Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tôi. Tôi đã hoàn thành hành phạt parivāsa, vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi.

[387] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tôi. Bạch các ngài, tôi đã hoàn thành hành phạt parivāsa, giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[388] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Vị ấy đã hoàn thành hành phạt parivāsa, giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Vị ấy đã hoàn thành hành phạt parivāsa, giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Vị ấy đã hoàn thành hành phạt parivāsa, giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đã được hội chúng ban cho tỷ-kheo Udāyi. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[389] Khi đã hoàn tất hành phạt mānatta, vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tôi. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho tôi hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Tôi đã hoàn tất hành phạt mānatta, vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy giải tội cho tỷ-kheo Udāyi.

[390] Và này các tỷ-kheo, nên giải tội như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tôi. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho tôi hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Bạch các ngài, tôi đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội.

...(như trên)..., tôi cầu xin hội chúng sự giải tội lần thứ nhì.

Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tôi. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho tôi hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Bạch các ngài, tôi đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội lần thứ ba.

[391] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Hội chúng giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận sự giải tội cho tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Hội chúng giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận sự giải tội cho tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tỷ-kheo Udāyi đã được hội chúng giải tội. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[392] Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi đã phạm một tội là tội cố ý xuất tinh, đã được che giấu hai ngày.…(như trên)… đã được che giấu ba ngày.…(như trên)… đã được che giấu bốn ngày.…(như trên)… đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỷ-kheo Udāyi.

[393] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[394] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đã được hội chúng ban cho tỷ-kheo Udāyi. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[395] Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy cho tỷ-kheo Udāyi đang ở vào giai đoạn giữa chừng được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu.

[396] Và này các tỷ-kheo, nên cho (thực hành) trở lại từ đầu như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[397] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Đại đức nào thỏa thuận việc (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu của tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Đại đức nào thỏa thuận việc (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[398] Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu.

[399] Và này các tỷ-kheo, nên cho (thực hành) trở lại từ đầu như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[400] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Đại đức nào thỏa thuận việc (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[401] Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Tôi đã hoàn thành hành phạt parivāsa; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi.

[402] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, giờ tôi đã hoàn thành hành phạt parivāsa, tôi cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[403] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã hoàn thành hành phạt parivāsa giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã hoàn thành hành phạt parivāsa giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đã được hội chúng ban cho tỷ-kheo Udāyi. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[404] Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã cho đến tôi hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy cho tỷ-kheo Udāyi dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu, rồi mới ban hành phạt mānatta sáu đêm.

[405] Và này các tỷ-kheo, nên cho (thực hành) trở lại từ đầu như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã cho đến tôi hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[406] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu được. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[407] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho hành phạt mānatta sáu đêm như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày…(như trên)… Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã cho đến tôi hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được trở lại (từ đầu) của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[408] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày…(như trên)… Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che dấu. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày…(như trên)… Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che dấu, đã được hội chúng ban đến tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[409] Khi đã hoàn tất hành phạt mānatta và xứng đáng sự giải tội, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày….(như trên)… Khi đã hoàn tất hành phạt mānatta và xứng đáng sự giải tội, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu, rồi mới ban hành phạt mānatta sáu đêm.

[410] Và này các tỷ-kheo, nên cho (thực hành) trở lại từ đầu như vầy: …(như trên)…

[411] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho hành phạt mānatta như vầy: …(như trên)…

(Hội chúng) ban cho ...(như trên)...

Hành phạt sáu đêm mānatta của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đã được hội chúng ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Sư việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[412] Khi hoàn tất hành phạt mānatta, vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày….(như trên)… Tôi đã hoàn tất hành phạt mānatta, vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy giải tội cho tỷ-kheo Udāyi.

[413] Và này các tỷ-kheo, nên giải tội như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tôi. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi đã hoàn tất hành phạt mānatta và xứng đáng sự giải tội, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, tôi đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[414] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã hoàn thành hành phạt parivāsa và đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi đã hoàn tất hành phạt mānatta và xứng đáng sự giải tội, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày…(như trên)… Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Hội chúng giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận sự giải tội của tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hội chúng đã giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[415] Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi đã phạm một tội là tội cố ý xuất tinh, đã được che giấu nữa tháng. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tỷ-kheo Udāyi.

[416] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[417] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tỷ-kheo Udāyi. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đã được hội chúng ban cho tỷ-kheo Udāyi. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[418] Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì sau khi đã cho (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày, hội chúng hãy ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây.

[419] Và này các tỷ-kheo, nên cho (thực hành) trở lại từ đầu như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Bạch các ngài, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[420] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu ở vào giai đoạn nữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Đại đức nào thỏa thuận việc tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[421] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho sự parivāsa kết hợp (samodhānaparivāsa) với tội trước đây như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Bạch các ngài, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[422] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đã được hội chúng ban đến tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[423] Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng…(như trên)… Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì sau khi cho (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày, hội chúng hãy ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây.

[424] Và này các tỷ-kheo, nên cho (thực hành) trở lại từ đầu như vầy: …(như trên)…

[425] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây như vầy: …(như trên)…

(Hội chúng) ban cho …(như trên)…

Hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đã được hội chúng ban đến tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[426] Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng …(như trên)… Tôi đã hoàn thành hành phạt parivāsa, vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi.

[427] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng …(như trên)… Bạch các ngài, tôi đã hoàn thành hành phạt parivāsa giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[428] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng…(như trên)… Vị ấy đã hoàn thành hành phạt parivāsa giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng…(như trên)… Vị ấy đã hoàn thành hành phạt parivāsa giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đã được hội chúng ban cho tỷ-kheo Udāyi. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[429] Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng …(như trên)… Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì sau khi cho (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày, sau khi ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây, hội chúng hãy ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt mānatta sáu đêm.

[430] Và này các tỷ-kheo, nên cho (thực hành) trở lại từ đầu như vầy: …(như trên)…

[431] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây như vầy: …(như trên)…

[432] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho hành phạt mānatta sáu đêm như vầy: …(như trên)…

(Hội chúng) ban cho …(như trên)…

Hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, có che dấu năm ngày, đã được hội chúng ban đến tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[433] Khi hoàn tất hành phạt mānatta và xứng đáng sự giải tội, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng…(như trên)… Khi hoàn tất hành phạt mānatta và xứng đáng sự giải tội, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì sau khi cho (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày, sau khi ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây, hội chúng hãy ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt mānatta sáu đêm.

[434] Và này các tỷ-kheo, nên cho (thực hành) trở lại từ đầu như vầy: …(như trên)…

[435] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây như vầy: …(như trên)…

[436] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho hành phạt mānatta sáu đêm như vầy…(như trên)…

(Hội chúng) ban cho …(như trên)…

Hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đã được hội chúng ban đến tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[437] Khi hoàn tất hành phạt mānatta, vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng….(như trên)… Tôi đã hoàn tất hành phạt mānatta, vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy giải tội cho tỷ-kheo Udāyi.

[438] Và này các tỷ-kheo, nên giải tội như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tôi. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Khi hoàn tất hành phạt mānatta và xứng đáng sự giải tội, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Bạch các ngài, tôi đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[439] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Khi hoàn tất hành phạt mānatta và xứng đáng sự giải tội, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng…(như trên)… Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Hội chúng giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận sự giải tội của tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hội chúng đã giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

Tội xuất tinh được đầy đủ.

[440] Vào lúc bấy giờ, có một vị tỷ-kheo đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa (Tăng tàng): một tội đã được che giấu một ngày, một tội đã được che giấu hai ngày, một tội đã được che giấu ba ngày, một tội đã được che giấu bốn ngày, một tội đã được che giấu năm ngày, một tội đã được che giấu sáu ngày, một tội đã được che giấu bảy ngày, một tội đã được che giấu tám ngày, một tội đã được che giấu chín ngày, một tội đã được che giấu mười ngày. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)…, một tội đã được che giấu mười ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội đã được che giấu mười ngày trong số các tội ấy đến vị tỷ-kheo ấy.

[441] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)…, một tội đã được che giấu mười ngày. Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội đã được che giấu mười ngày trong số các tội ấy.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[442] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo này tên (như vầy) đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)…, một tội đã được che giấu mười ngày. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội đã được che giấu mười ngày trong số các tội ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội đã được che giấu mười ngày trong số các tội ấy đến tỷ-kheo tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo này tên (như vầy) đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)…, một tội đã được che giấu mười ngày. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội đã được che giấu mười ngày trong số các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội đã được che giấu mười ngày trong số các tội ấy đến tỷ-kheo tên (như vầy). Đại đức nào thỏa thuận với việc ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội đã được che giấu mười ngày trong số các tội ấy đến tỷ-kheo tên (như vầy), xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội đã được che giấu mười ngày trong số các tội ấy đến tỷ-kheo tên (như vầy). Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[443] Vào lúc bấy giờ, có một vị tỷ-kheo đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, hai tội đã được che giấu hai ngày, ba tội đã được che giấu ba ngày, bốn tội đã được che giấu bốn ngày, năm tội đã được che giấu năm ngày, sáu tội đã được che giấu sáu ngày, bảy tội đã được che giấu bảy ngày, tám tội đã được che giấu tám ngày, chín tội đã được che giấu chín ngày, mười tội đã được che giấu mười ngày. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)…, mười tội đã được che giấu mười ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội đã được che giấu dài ngày nhất trong số các tội ấy đến vị tỷ-kheo ấy.

[444] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)…, mười tội đã được che giấu mười ngày. Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội đã được che giấu mười ngày trong số các tội ấy.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[445] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo này tên (như vầy) đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)…, mười tội đã được che giấu mười ngày. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội đã được che giấu dài ngày nhất trong số các tội ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội đã được che giấu dài ngày nhất trong số các tội ấy đến tỷ-kheo tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo này tên (như vầy) đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)…, mười tội đã được che giấu mười ngày. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội đã được che giấu dài ngày nhất trong số các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội đã được che giấu dài ngày nhất trong số các tội ấy đến tỷ-kheo tên (như vầy). Đại đức nào thỏa thuận với việc ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội đã được che giấu dài ngày nhất trong số các tội ấy đến tỷ-kheo tên (như vầy), xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội đã được che giấu dài ngày nhất trong số các tội ấy đến tỷ-kheo tên (như vầy). Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[446] Vào lúc bấy giờ, có một vị tỷ-kheo đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy đã khởi ý rằng: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng." Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy hành parivāsa, pháp hổ thẹn đã xuất hiện: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đã khởi ý rằng: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng." Ta đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến ta. Trong khi ta thực hành parivāsa, pháp hổ thẹn đã xuất hiện. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội kia đã được che giấu hai tháng."

Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Tôi đã khởi ý rằng: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng." Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến tôi. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở tôi trong khi thực hành parivāsa: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đã khởi ý rằng: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng." Ta đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến ta. Trong khi ta thực hành parivāsa, pháp hổ thẹn đã xuất hiện. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội kia đã được che giấu hai tháng;" vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội kia đã được che giấu hai tháng đến vị tỷ-kheo ấy.

[447] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Tôi đã khởi ý rằng: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng." Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến tôi. Trong khi tôi thực hành parivāsa, pháp hổ thẹn đã xuất hiện: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đã khởi ý rằng: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng." Ta đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến ta. Trong khi ta thực hành parivāsa, pháp hổ thẹn đã xuất hiện. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội kia đã được che giấu hai tháng." Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội kia đã được che giấu hai tháng.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[448] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo này tên (như vầy) đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy đã khởi ý rằng: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng." Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy hành parivāsa, pháp hổ thẹn đã xuất hiện: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đã khởi ý rằng: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng." Ta đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến ta. Trong khi ta thực hành parivāsa, pháp hổ thẹn đã xuất hiện. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội kia đã được che giấu hai tháng." Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội kia đã được che giấu hai tháng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội kia đã được che giấu hai tháng đến tỷ-kheo tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo này tên (như vầy) đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy đã khởi ý rằng: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng." Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy hành parivāsa, pháp hổ thẹn đã xuất hiện: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đã khởi ý rằng: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng." Ta đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến ta. Trong khi ta thực hành parivāsa, pháp hổ thẹn đã xuất hiện. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội kia đã được che giấu hai tháng." Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội kia đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội kia đã được che giấu hai tháng đến vị tỷ-kheo tên (như vầy). Đại đức nào thỏa thuận với việc ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội kia đã được che giấu hai tháng đến vị tỷ-kheo tên (như vầy), xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội kia đã được che giấu hai tháng đến vị tỷ-kheo tên (như vầy). Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

Này các tỷ-kheo, sau khi xác định điều ấy, vị tỷ-kheo ấy nên hành parivāsa hai tháng.

[449] Này các tỷ-kheo, trường hợp vị tỷ-kheo phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy đã khởi ý rằng: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng." Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy hành parivāsa, pháp hổ thẹn đã xuất hiện: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đã khởi ý rằng: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng." Ta đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến ta. Trong khi ta thực hành parivāsa, pháp hổ thẹn đã xuất hiện. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội kia đã được che giấu hai tháng." Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội kia đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội kia đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.

Này các tỷ-kheo, sau khi xác định điều ấy, vị tỷ-kheo ấy nên hành parivāsa hai tháng.

[450] Này các tỷ-kheo, trường hợp vị tỷ-kheo phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội vị ấy biết, một tội vị ấy không biết. Tội mà vị ấy biết, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, vị ấy biết được tội kia. Vị ấy nghĩ như vầy: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội ta biết, một tội ta không biết. Tội mà ta biết, ta đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng đến ta. Trong khi thực hành parivāsa, ta biết được tội kia. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội kia đã được che giấu hai tháng." Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội kia đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội kia đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.

Này các tỷ-kheo, sau khi xác định điều ấy, vị tỷ-kheo ấy nên hành parivāsa hai tháng.

[451] Này các tỷ-kheo, trường hợp vị tỷ-kheo phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội vị ấy nhớ, một tội vị ấy không nhớ. Tội mà vị ấy nhớ, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, vị ấy nhớ được tội kia. Vị ấy nghĩ như vầy: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội ta nhớ, một tội ta không nhớ. Tội mà ta nhớ, ta đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng đến ta. Trong khi thực hành parivāsa, ta nhớ được tội kia. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội kia đã được che giấu hai tháng." Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội kia đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội kia đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.

Này các tỷ-kheo, sau khi xác định điều ấy, vị tỷ-kheo ấy nên hành parivāsa hai tháng.

[452] Này các tỷ-kheo, trường hợp vị tỷ-kheo phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội không có nghi ngờ, một tội có nghi ngờ. Với tội không có nghi ngờ, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, tội kia không còn nghi ngờ. Vị ấy nghĩ như vầy: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội không có nghi ngờ, một tội có nghi ngờ. Với tội không có nghi ngờ, ta đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng đến ta. Trong khi thực hành parivāsa, tội kia không còn nghi ngờ. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội kia đã được che giấu hai tháng." Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội kia đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội kia đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.

Này các tỷ-kheo, sau khi xác định điều ấy, vị tỷ-kheo ấy nên hành parivāsa hai tháng.

[453] Này các tỷ-kheo, trường hợp vị tỷ-kheo phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội đã được che giấu có chủ tâm, một tội đã được che giấu không có chủ tâm. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy đang hành parivāsa, có một tỷ-kheo khác đi đến là vị đa văn, thông thạo các bộ kinh, vị nắm giữ Pháp, vị nắm giữ Luật, vị thuộc lòng các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, chu đáo, là vị ưa thích các học giới. Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, vị tỷ-kheo này đã phạm tội gì? Vì sao vị tỷ-kheo này thực hành parivāsa?

Các vị ấy trả lời như vầy:

- Này đại đức, vị tỷ-kheo này đã phạm hai tội Saṅghādisesa che giấu hai tháng; một tội đã được che giấu có chủ tâm (ekā āpatti jānapaticchannā), một tội đã được che giấu không có chủ tâm (ekā āpatti ajānapaticchannā). Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Này đại đức, vị tỷ-kheo này đã phạm các tội ấy. Vị tỷ-kheo này thực hành parivāsa vì các tội ấy.

Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, tội nào đã được che giấu có chủ tâm, việc ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy là hợp lý; sự hợp lý đem lại kết quả. Này các đại đức, còn tội nào đã được che giấu không có chủ tâm, việc ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy là không hợp lý; sự không hợp lý không đem lại kết quả. Này các đại đức, vị tỷ-kheo xứng đáng hành phạt mānatta của tội kia (đã được che giấu có chủ tâm).

[454] Này các tỷ-kheo, trường hợp vị tỷ-kheo phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội đã được che giấu có ghi nhớ, một tội đã được che giấu không có ghi nhớ. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy đang hành parivāsa, có một tỷ-kheo khác đi đến là vị đa văn, thông thạo các bộ kinh, vị nắm giữ Pháp, vị nắm giữ Luật, vị thuộc lòng các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, chu đáo, là vị ưa thích các học giới. Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, vị tỷ-kheo này đã phạm tội gì? Vì sao vị tỷ-kheo này thực hành parivāsa?

Các vị ấy trả lời như vầy:

- Này đại đức, vị tỷ-kheo này đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội đã được che giấu có ghi nhớ, một tội đã được che giấu không có ghi nhớ. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Này đại đức, vị tỷ-kheo này đã phạm các tội ấy. Vị tỷ-kheo này thực hành parivāsa vì các tội ấy.

Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, tội nào đã được che giấu có ghi nhớ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy là hợp lý; sự hợp lý đem lại kết quả. Này các đại đức, còn tội nào đã được che giấu không có ghi nhớ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy là không hợp lý; sự không hợp lý không đem lại kết quả. Này các đại đức, vị tỷ-kheo xứng đáng hành phạt mānatta của tội kia (đã được che giấu có ghi nhớ).

[455] Này các tỷ-kheo, trường hợp vị tỷ-kheo phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội đã được che giấu không có nghi ngờ, một tội đã được che giấu có nghi ngờ. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy đang hành parivāsa, có một tỷ-kheo khác đi đến là vị đa văn, thông thạo các bộ kinh, vị nắm giữ Pháp, vị nắm giữ Luật, vị thuộc lòng các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, chu đáo, là vị ưa thích các học giới. Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, vị tỷ-kheo này đã phạm tội gì? Vì sao vị tỷ-kheo này thực hành parivāsa?

Các vị ấy trả lời như vầy:

- Này đại đức, vị tỷ-kheo này đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội đã được che giấu không có nghi ngờ, một tội đã được che giấu có nghi ngờ. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Này đại đức, vị tỷ-kheo này đã phạm các tội ấy. Vị tỷ-kheo này thực hành parivāsa vì các tội ấy.

Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, tội nào đã được che giấu không có nghi ngờ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy là hợp lý; sự hợp lý đem lại kết quả. Này các đại đức, còn tội nào đã được che giấu có nghi ngờ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy là không hợp lý; sự không hợp lý không đem lại kết quả. Này các đại đức, vị tỷ-kheo xứng đáng hành phạt mānatta của tội kia (đã được che giấu không có nghi ngờ).

[456] Này các tỷ-kheo, trường hợp vị tỷ-kheo phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy đã khởi ý rằng: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng." Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy hành parivāsa, pháp hổ thẹn đã xuất hiện: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đã khởi ý rằng: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng." Ta đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta. Trong khi ta thực hành parivāsa, pháp hổ thẹn đã xuất hiện. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng còn lại của hai tội đã được che giấu hai tháng."

Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Tôi đã khởi ý rằng: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng." Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến tôi. Trong khi tôi thực hành parivāsa, pháp hổ thẹn đã xuất hiện: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đã khởi ý rằng: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng." Ta đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta. Trong khi ta thực hành parivāsa, pháp hổ thẹn đã xuất hiện. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng còn lại của hai tội đã được che giấu hai tháng;" vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa một tháng còn lại của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị tỷ-kheo ấy.

[457] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Tôi đã khởi ý rằng: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng." Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến tôi. Trong khi tôi thực hành parivāsa, pháp hổ thẹn đã xuất hiện: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đã khởi ý rằng: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng." Ta đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta. Trong khi ta thực hành parivāsa, pháp hổ thẹn đã xuất hiện. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng còn lại của hai tội đã được che giấu hai tháng." Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng còn lại của hai tội đã được che giấu hai tháng.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[458] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo này tên (như vầy) đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy đã khởi ý rằng: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng." Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy hành parivāsa, pháp hổ thẹn đã xuất hiện: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đã khởi ý rằng: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng." Ta đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta. Trong khi ta thực hành parivāsa, pháp hổ thẹn đã xuất hiện. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng còn lại của hai tội đã được che giấu hai tháng." Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng còn lại của hai tội đã được che giấu hai tháng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa một tháng còn lại của hai tội đã được che giấu hai tháng đến tỷ-kheo tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo này tên (như vầy) đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy đã khởi ý rằng: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng." Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy hành parivāsa, pháp hổ thẹn đã xuất hiện: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đã khởi ý rằng: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng." Ta đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta. Trong khi ta thực hành parivāsa, pháp hổ thẹn đã xuất hiện. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng còn lại của hai tội đã được che giấu hai tháng." Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng còn lại của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa một tháng còn lại của hai tội đã được che giấu hai tháng đến tỷ-kheo tên (như vầy). Đại đức nào thỏa thuận với việc ban cho hành phạt parivāsa một tháng còn lại của hai tội đã được che giấu hai tháng đến tỷ-kheo tên (như vầy), xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng còn lại của hai tội đã được che giấu hai tháng đến tỷ-kheo tên (như vầy). Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy nên xác định trước và thực hành parivāsa hai tháng.

[459] Này các tỷ-kheo, trường hợp vị tỷ-kheo phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy nghĩ như vầy: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng." Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy hành parivāsa, pháp hổ thẹn đã xuất hiện: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đã khởi ý rằng: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng." Ta đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta. Trong khi ta thực hành parivāsa, pháp hổ thẹn đã xuất hiện. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng còn lại của hai tội đã được che giấu hai tháng." Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng còn lại của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa một tháng còn lại của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy nên xác định trước và thực hành parivāsa hai tháng.

[460] Này các tỷ-kheo, trường hợp vị tỷ-kheo phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng thì vị ấy biết, tháng kia thì vị ấy không biết. Tháng mà vị ấy biết, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng ấy của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa tháng ấy, là tháng mà vị ấy biết, của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, vị ấy biết được tháng kia. Vị ấy nghĩ như vầy: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng thì ta biết, tháng kia thì ta không biết. Tháng mà ta biết, ta đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng ấy của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa tháng ấy, là tháng mà ta biết, của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta. Trong khi thực hành parivāsa, ta biết được tháng kia. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng còn lại của hai tội đã được che giấu hai tháng." Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng còn lại của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa tháng còn lại của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy nên xác định trước và thực hành parivāsa hai tháng.

[461] Này các tỷ-kheo, trường hợp vị tỷ-kheo phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng thì vị ấy nhớ, tháng kia thì vị ấy không nhớ. Tháng mà vị ấy nhớ, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng ấy của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa tháng ấy, là tháng mà vị ấy nhớ, của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, vị ấy nhớ được tháng kia. Vị ấy nghĩ như vầy: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng thì ta nhớ, tháng kia thì ta không nhớ. Tháng mà ta nhớ, ta đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng ấy của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa tháng ấy, là tháng mà ta nhớ, của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta. Trong khi thực hành parivāsa, ta nhớ được tháng kia. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng còn lại của hai tội đã được che giấu hai tháng." Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng còn lại của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa tháng còn lại của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy nên xác định trước và thực hành parivāsa hai tháng.

[462] Này các tỷ-kheo, trường hợp vị tỷ-kheo phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng vị ấy không có nghi ngờ, một tháng vị ấy có nghi ngờ. Tháng vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng ấy của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa tháng ấy, là tháng vị ấy không có nghi ngờ, của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, vị ấy không còn nghi ngờ về tháng kia. Vị ấy nghĩ như vầy: "Ta đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng ta không có nghi ngờ, một tháng ta có nghi ngờ. Tháng ta không có nghi ngờ, ta đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng ấy của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa tháng ấy, là tháng ta không có nghi ngờ, của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta. Trong khi thực hành parivāsa, ta không còn nghi ngờ về tháng kia. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng còn lại của hai tội đã được che giấu hai tháng." Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng còn lại của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa tháng còn lại của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy nên xác định trước và thực hành parivāsa hai tháng.

[463] Này các tỷ-kheo, trường hợp vị tỷ-kheo phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng đã được che giấu có chủ tâm, một tháng đã được che giấu không có chủ tâm. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy đang hành parivāsa, có một tỷ-kheo khác đi đến là vị đa văn, thông thạo các bộ kinh, vị nắm giữ Pháp, vị nắm giữ Luật, vị thuộc lòng các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, chu đáo, là vị ưa thích các học giới. Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, vị tỷ-kheo này đã phạm tội gì? Vì sao vị tỷ-kheo này thực hành parivāsa?

Các vị ấy trả lời như vầy:

- Này đại đức, vị tỷ-kheo này đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng đã được che giấu có chủ tâm, một tháng đã được che giấu không có chủ tâm. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Này đại đức, vị tỷ-kheo này đã phạm các tội ấy. Vị tỷ-kheo này thực hành parivāsa vì các tội ấy.

Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, tháng nào đã được che giấu có chủ tâm, việc ban cho hành phạt parivāsa của tháng ấy là hợp lý; sự hợp lý đem lại kết quả. Này các đại đức, còn tháng nào đã được che giấu không có chủ tâm, việc ban cho hành phạt parivāsa của tháng ấy là không hợp lý; sự không hợp lý không đem lại kết quả. Này các đại đức, vị tỷ-kheo xứng đáng hành phạt mānatta của tháng kia (đã được che giấu có chủ tâm).

[464] Này các tỷ-kheo, trường hợp vị tỷ-kheo phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng đã được che giấu có ghi nhớ (saramānapaticchanno), một tháng đã được che giấu không có ghi nhớ. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy đang hành parivāsa, có một tỷ-kheo khác đi đến là vị đa văn, thông thạo các bộ kinh, vị nắm giữ Pháp, vị nắm giữ Luật, vị thuộc lòng các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, chu đáo, là vị ưa thích các học giới. Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, vị tỷ-kheo này đã phạm tội gì? Vì sao vị tỷ-kheo này thực hành parivāsa?

Các vị ấy trả lời như vầy:

- Này đại đức, vị tỷ-kheo này đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng đã được che giấu có ghi nhớ, một tháng đã được che giấu không có ghi nhớ. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Này đại đức, vị tỷ-kheo này đã phạm các tội ấy. Vị tỷ-kheo này thực hành parivāsa vì các tội ấy.

Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, tháng nào đã được che giấu có ghi nhớ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tháng ấy là hợp lý; sự hợp lý đem lại kết quả. Này các đại đức, còn tháng nào đã được che giấu không có ghi nhớ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tháng ấy là không hợp lý; sự không hợp lý không đem lại kết quả. Này các đại đức, vị tỷ-kheo xứng đáng hành phạt mānatta của tháng kia (đã được che giấu có ghi nhớ).

[465] Này các tỷ-kheo, trường hợp vị tỷ-kheo phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng đã được che giấu không có nghi ngờ, một tháng đã được che giấu có nghi ngờ. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy đang hành parivāsa, có một tỷ-kheo khác đi đến là vị đa văn, thông thạo các bộ kinh, vị nắm giữ Pháp, vị nắm giữ Luật, vị thuộc lòng các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, chu đáo, là vị ưa thích các học giới. Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, vị tỷ-kheo này đã phạm tội gì? Vì sao vị tỷ-kheo này thực hành parivāsa?

Các vị ấy trả lời như vầy:

- Này đại đức, vị tỷ-kheo này đã phạm hai tội Saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng đã được che giấu không có nghi ngờ, một tháng đã được che giấu có nghi ngờ. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Này đại đức, vị tỷ-kheo này đã phạm các tội ấy. Vị tỷ-kheo này thực hành parivāsa vì các tội ấy.

Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, tháng nào đã được che giấu không có nghi ngờ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy là hợp lý; sự hợp lý đem lại kết quả. Này các đại đức, còn tháng nào đã được che giấu có nghi ngờ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tháng ấy là không hợp lý; sự không hợp lý không đem lại kết quả. Này các đại đức, vị tỷ-kheo xứng đáng hành phạt mānatta của tháng kia (đã được che giấu không có nghi ngờ).

[466] Vào lúc bấy giờ, có một vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Vị ấy không biết số lượng của các tội, vị ấy không biết số lượng của các đêm (đã dấu), vị ấy không nhớ số lượng của các tội, vị ấy không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), vị ấy có nghi ngờ về số lượng của các tội, vị ấy có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu). Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Tôi không biết số lượng của các tội, tôi không biết số lượng của các đêm (đã dấu), tôi không nhớ số lượng của các tội, tôi không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), tôi có nghi ngờ về số lượng của các tội, tôi có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu); vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch (suddhantaparivāsa) của các tội ấy đến vị tỷ-kheo ấy.

[Bản dịch Anh ngữ của Rhydavis và Oldenberg chú thích rằng: Buddhaghosa giải thích số lượng đêm thực hành suddhantaparivāsa nên tính từ lúc tu lên bậc trên đến ngày hôm ấy. Cách thức đang được áp dụng là xác định thời gian được trong sạch sau ngày tu lên bậc trên rồi thực hành suddhantaparivāsa cho thời gian còn lại. Lối giải thích này phù hợp với ý nghĩa của từ suddhanta = suddha + anta = thời điểm cuối khi được trong sạch].

[467] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Tôi không biết số lượng của các tội, tôi không biết số lượng của các đêm (đã dấu), tôi không nhớ số lượng của các tội, tôi không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), tôi có nghi ngờ về số lượng của các tội, tôi có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu). Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[468] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo này tên (như vầy) đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Vị ấy không biết số lượng của các tội, vị ấy không biết số lượng của các đêm (đã dấu), vị ấy không nhớ số lượng của các tội, vị ấy không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), vị ấy có nghi ngờ về số lượng của các tội, vị ấy có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu). Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy đến tỷ-kheo tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo này tên (như vầy) đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Vị ấy không biết số lượng của các tội, vị ấy không biết số lượng của các đêm (đã dấu), vị ấy không nhớ số lượng của các tội, vị ấy không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), vị ấy có nghi ngờ về số lượng của các tội, vị ấy có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu). Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy đến tỷ-kheo tên (như vầy). Đại đức nào thỏa thuận với việc ban cho hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy đến tỷ-kheo tên (như vầy), xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy đến tỷ-kheo tên (như vầy). Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[469] Này các tỷ-kheo, hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho như vầy; hành phạt parivāsa nên được ban cho như vầy.

Và này các tỷ-kheo, thế nào là hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho?

(Nếu) vị ấy không biết số lượng của các tội, (nếu) vị ấy không biết số lượng của các đêm (đã dấu), (nếu) vị ấy không nhớ số lượng của các tội, (nếu) vị ấy không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), (nếu) vị ấy có nghi ngờ về số lượng của các tội, (nếu) vị ấy có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu) thì hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho.

(Nếu) vị ấy biết số lượng của các tội, (nếu) vị ấy không biết số lượng của các đêm (đã dấu), (nếu) vị ấy nhớ số lượng của các tội, (nếu) vị ấy không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), (nếu) vị ấy không có nghi ngờ về số lượng của các tội, (nếu) vị ấy có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu) thì hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho.

(Nếu) vị ấy biết một phần số lượng của tội, một phần vị ấy không biết; (nếu) vị ấy không biết số lượng của đêm; (nếu) vị ấy nhớ một phần số lượng của tội, một phần vị ấy không nhớ; (nếu) vị ấy không nhớ số lượng của đêm; (nếu) vị ấy có nghi ngờ về một phần số lượng của tội, một phần không có nghi ngờ; (nếu) vị ấy có nghi ngờ về số lượng của đêm thì hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho.

(Nếu) vị ấy không biết số lượng của các tội; (nếu) vị ấy biết một phần số lượng của đêm, một phần vị ấy không biết; (nếu) vị ấy không nhớ số lượng của các tội; (nếu) vị ấy nhớ một phần số lượng của đêm, một phần vị ấy không nhớ; (nếu) vị ấy có nghi ngờ về số lượng của các tội; (nếu) vị ấy có nghi ngờ về một phần số lượng của đêm, một phần vị ấy không có nghi ngờ thì hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho.

(Nếu) vị ấy biết số lượng của các tội; (nếu) vị ấy biết một phần số lượng của đêm, một phần vị ấy không biết; (nếu) vị ấy nhớ số lượng của các tội; (nếu) vị ấy nhớ một phần số lượng của đêm, một phần vị ấy không nhớ; (nếu) vị ấy không có nghi ngờ về số lượng của các tội; (nếu) vị ấy có nghi ngờ về một phần số lượng của đêm, một phần vị ấy không có nghi ngờ thì hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho.

(Nếu) vị ấy biết một phần số lượng của tội, một phần vị ấy không biết; (nếu) vị ấy biết một phần số lượng của đêm, một phần vị ấy không biết; (nếu) vị ấy nhớ một phần số lượng của tội, một phần vị ấy không nhớ; (nếu) vị ấy nhớ một phần số lượng của đêm, một phần vị ấy không nhớ; (nếu) vị ấy có nghi ngờ về một phần số lượng của tội, một phần vị ấy không có nghi ngờ; (nếu) vị ấy có nghi ngờ về một phần số lượng của đêm, một phần vị ấy không có nghi ngờ thì hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho.

Này các tỷ-kheo, hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho như thế.

[470] Và này các tỷ-kheo, thế nào là hành phạt parivāsa nên được ban cho?

(Nếu) vị ấy biết số lượng của các tội, (nếu) vị ấy biết số lượng của các đêm (đã dấu), (nếu) vị ấy nhớ số lượng của các tội, (nếu) vị ấy nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), (nếu) vị ấy không có nghi ngờ về số lượng của các tội, (nếu) vị ấy không có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu) thì hành phạt parivāsa nên được ban cho.

(Nếu) vị ấy không biết số lượng của các tội, (nếu) vị ấy biết số lượng của các đêm (đã dấu), (nếu) vị ấy không nhớ số lượng của các tội, (nếu) vị ấy nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), (nếu) vị ấy có nghi ngờ về số lượng của các tội, (nếu) vị ấy không có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu) thì hành phạt parivāsa nên được ban cho.

(Nếu) vị ấy biết một phần số lượng của tội, một phần vị ấy không biết; (nếu) vị ấy biết số lượng của các đêm (đã dấu); (nếu) vị ấy nhớ một phần số lượng của tội, một phần vị ấy không nhớ; (nếu) vị ấy nhớ số lượng của các đêm (đã dấu); (nếu) vị ấy có nghi ngờ về một phần số lượng của tội, một phần vị ấy không có nghi ngờ; (nếu) vị ấy không có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu) thì hành phạt parivāsa nên được ban cho.

Này các tỷ-kheo, hành phạt parivāsa nên được ban cho như thế.

Dứt Hành phạt Parivāsa.

[471] Vào lúc bấy giờ, có một vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đã hoàn tục. Vị ấy đã trở lại và cầu xin sự tu lên bậc trên. Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

[472] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa lại hoàn tục. Này các tỷ-kheo, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị đã hoàn tục. Nhưng nếu vị ấy tu lên bậc trên lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn, phần đã thực hành parivāsa xong (là đã được) thực hành parivāsa một cách đúng đắn, nên thực hành parivāsa phần còn lại.

[473] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa lại xuống sa-di. Này các tỷ-kheo, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị sa-di. Nhưng nếu vị ấy tu lên bậc trên lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn, phần đã thực hành parivāsa xong (là đã được) thực hành parivāsa một cách đúng đắn, nên thực hành parivāsa phần còn lại.

[474] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa lại bị điên. Này các tỷ-kheo, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị bị điên. Nhưng nếu vị ấy hết bị điên, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn, phần đã thực hành parivāsa xong (là đã được) thực hành parivāsa một cách đúng đắn, nên thực hành parivāsa phần còn lại.

[475] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa bị loạn trí. Này các tỷ-kheo, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị bị loạn trí. Nhưng nếu vị ấy hết bị loạn trí, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn, phần đã thực hành parivāsa xong (là đã được) thực hành parivāsa một cách đúng đắn, nên thực hành parivāsa phần còn lại.

[476] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa bị thọ khổ hành hạ (vedanatto). Này các tỷ-kheo, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị bị thọ khổ hành hạ. Nhưng nếu vị ấy hết bị thọ khổ hành hạ, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn, phần đã thực hành parivāsa xong (là đã được) thực hành parivāsa một cách đúng đắn, nên thực hành parivāsa phần còn lại.

[477] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa lại bị án treo về việc không nhìn nhận tội. Này các tỷ-kheo, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị bị án treo. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn, phần đã thực hành parivāsa xong (là đã được) thực hành parivāsa một cách đúng đắn, nên thực hành parivāsa phần còn lại.

[478] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa lại bị án treo về việc không sửa chữa lỗi. Này các tỷ-kheo, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị bị án treo về việc không sửa chữa lỗi. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn, phần đã thực hành parivāsa xong (là đã được) thực hành parivāsa một cách đúng đắn, nên thực hành parivāsa phần còn lại.

[479] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa lại bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác. Này các tỷ-kheo, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn, phần đã thực hành parivāsa xong (là đã được) thực hành parivāsa một cách đúng đắn, nên thực hành parivāsa phần còn lại.

[480] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo là vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu lại hoàn tục. Này các tỷ-kheo, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị hoàn tục. Nhưng nếu vị ấy tu lên bậc trên lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn, phần đã thực hành parivāsa xong (là đã được) thực hành parivāsa một cách đúng đắn, vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[481] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo là vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu lại xuống sa-di …(như trên)… bị điên …(như trên)… bị loạn trí …(như trên)… bị thọ khổ hành hạ …(như trên)… bị án treo về việc không nhìn nhận tội …(như trên)… bị án treo về việc không sửa chữa lỗi …(như trên)… bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác. Này các tỷ-kheo, sự (thực hành) trở lại từ đầu không có tác dụng đối với vị bị án treo. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn, phần đã thực hành parivāsa xong (là đã được) thực hành parivāsa một cách đúng đắn, vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[482] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo xứng đáng hành phạt mānatta lại hoàn tục. Này các tỷ-kheo, hành phạt mānatta không có tác dụng đối với vị hoàn tục. Nhưng nếu vị ấy tu lên bậc trên lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn, phần đã thực hành parivāsa xong (là đã được) thực hành parivāsa một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nên ban đến cho vị ấy.

[483] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo xứng đáng hành phạt mānatta lại xuống sa-di …(như trên)… bị điên …(như trên)… bị loạn trí …(như trên)… bị thọ khổ hành hạ …(như trên)… bị án treo về việc không nhìn nhận tội …(như trên)… bị án treo về việc không sửa chữa lỗi …(như trên)… bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác. Này các tỷ-kheo, hành phạt mānatta không có tác dụng đối với vị bị án treo. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn, phần đã thực hành parivāsa xong (là đã được) thực hành parivāsa một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nên ban đến cho vị ấy.

[484] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo là vị đang thực hành hành phạt mānatta lại hoàn tục. Này các tỷ-kheo, việc thực hành hành phạt mānatta không có tác dụng đối với vị hoàn tục. Nhưng nếu vị ấy tu lên bậc trên lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn, phần đã thực hành parivāsa xong (là đã được) thực hành parivāsa một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn, phần đã thực hành mānatta đã được hoàn tất (là đã được) hoàn tất một cách đúng đắn, nên thực hành phần còn lại.

[485] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo là vị đang thực hành hành phạt mānatta lại xuống sa-di …(như trên)… bị điên …(như trên)… bị loạn trí …(như trên)… bị thọ khổ hành hạ …(như trên)… bị án treo về việc không nhìn nhận tội …(như trên)… bị án treo về việc không sửa chữa lỗi …(như trên)… bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác. Này các tỷ-kheo, việc thực hành hành phạt mānatta không có tác dụng đối với vị bị án treo. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn, phần đã thực hành parivāsa xong (là đã được) thực hành parivāsa một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn, phần đã thực hành mānatta đã được hoàn tất (là đã được) hoàn tất một cách đúng đắn, nên thực hành phần còn lại.

[486] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo là vị xứng đáng sự giải tội lại hoàn tục. Này các tỷ-kheo, sự giải tội không có tác dụng đối với vị hoàn tục. Nhưng nếu vị ấy tu lên bậc trên lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn, phần đã thực hành parivāsa xong (là đã được) thực hành parivāsa một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn, phần đã thực hành mānatta đã được hoàn tất (là đã được) hoàn tất một cách đúng đắn. Vị tỷ-kheo ấy nên được giải tội.

[487] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo là vị xứng đáng sự giải tội lại xuống sa-di …(như trên)… bị điên …(như trên)… bị loạn trí …(như trên)… bị thọ khổ hành hạ …(như trên)… bị án treo về việc không nhìn nhận tội …(như trên)… bị án treo về việc không sửa chữa lỗi …(như trên)… bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác. Này các tỷ-kheo, sự giải tội không có tác dụng đối với vị bị án treo. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn, phần đã thực hành parivāsa xong (là đã được) thực hành parivāsa một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn, phần đã thực hành mānatta đã được hoàn tất (là đã được) hoàn tất một cách đúng đắn. Vị tỷ-kheo ấy nên được giải tội.

Bốn mươi trường hợp được đầy đủ.

[488] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định (parimānāyo), không có che giấu. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[489] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định (parimānāyo), không có che giấu. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[490] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định (parimānāyo), có che giấu và không có che giấu. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[491] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa chưa được xác định (aparimānāyo), không có che giấu. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[492] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa chưa được xác định, có che giấu. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[493] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa chưa được xác định có che giấu và không có che giấu. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[494] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, không có che giấu. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[495] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[496] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[497] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo xứng đáng hành phạt mānatta …(như trên)…

[498] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta …(như trên)…

[499] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo là vị xứng đáng sự giải tội và đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, không có che giấu. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[500] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo là vị xứng đáng sự giải tội và đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, có che giấu. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[501] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo là vị xứng đáng sự giải tội và đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[502] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo là vị xứng đáng sự giải tội và đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa chưa được xác định (aparimānāyo), không có che giấu. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[503] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo là vị xứng đáng sự giải tội và đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa chưa được xác định, có che giấu. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[504] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo là vị xứng đáng sự giải tội và đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[505] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo là vị xứng đáng sự giải tội và đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, không có che giấu. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[506] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo là vị xứng đáng sự giải tội và đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[507] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo là vị xứng đáng sự giải tội và đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

Ba mươi sáu trường hợp được đầy đủ.

[508] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa, không có che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và không giấu giếm các tội ấy. Này các tỷ-kheo, hành phạt mānatta nên ban cho đến vị tỷ-kheo ấy.

[509] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa, không có che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và giấu giếm các tội ấy. Này các tỷ-kheo, sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như nhóm các tội đã được che giấu trong thời gian sau này, rồi mới nên ban cho hành phạt mānatta đến vị tỷ-kheo ấy.

[510] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa, có che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và không giấu giếm các tội ấy. Này các tỷ-kheo, sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như nhóm các tội đã được che giấu trong thời gian trước đây, rồi mới nên ban cho hành phạt mānatta đến vị tỷ-kheo ấy.

[511] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa, có che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và giấu giếm các tội ấy. Này các tỷ-kheo, sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như nhóm các tội đã được che giấu trong thời gian trước đây và thời gian sau này, rồi mới nên ban cho hành phạt mānatta đến vị tỷ-kheo ấy.

[512] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội đã giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy không giấu giếm; các tội đã không giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy cũng không giấu giếm Này các tỷ-kheo, sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như nhóm các tội đã được che giấu trong thời gian trước đây, rồi mới nên ban cho hành phạt mānatta đến vị tỷ-kheo ấy.

[513] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội đã giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy không giấu giếm; các tội đã không giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy giấu giếm Này các tỷ-kheo, sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như nhóm các tội đã được che giấu trong thời gian trước đây và thời gian sau này, rồi mới nên ban cho hành phạt mānatta đến vị tỷ-kheo ấy.

[514] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội đã giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy cũng giấu giếm; các tội đã không giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy cũng không giấu giếm Này các tỷ-kheo, sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như nhóm các tội đã được che giấu trong thời gian trước đây và thời gian sau này, rồi mới nên ban cho hành phạt mānatta đến vị tỷ-kheo ấy.

[515] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội đã giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy cũng giấu giếm; các tội đã không giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy giấu giếm Này các tỷ-kheo, sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như nhóm các tội đã được che giấu trong thời gian trước đây và thời gian sau này, rồi mới nên ban cho hành phạt mānatta đến vị tỷ-kheo ấy.

[516] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Một số tội vị ấy biết, một số tội vị ấy không biết. Vị ấy đã giấu giếm các tội vị ấy biết. Các tội vị ấy không biết vị ấy đã không giấu giếm. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy biết và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy biết và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy không biết và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy biết và không giấu giếm. Này các tỷ-kheo, sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như nhóm các tội đã được che giấu trong thời gian trước đây, rồi mới nên ban cho hành phạt mānatta đến vị tỷ-kheo ấy.

[517] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Một số tội vị ấy biết, một số tội vị ấy không biết. Vị ấy đã giấu giếm các tội vị ấy biết. Các tội vị ấy không biết vị ấy đã không giấu giếm. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy biết và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy biết và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy không biết và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy biết và giấu giếm. Này các tỷ-kheo, sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như nhóm các tội đã được che giấu trong thời gian trước đây và thời gian sau này, rồi mới nên ban cho hành phạt mānatta đến vị tỷ-kheo ấy.

[518] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Một số tội vị ấy biết, một số tội vị ấy không biết. Vị ấy đã giấu giếm các tội vị ấy biết. Các tội vị ấy không biết vị ấy đã không giấu giếm. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy biết và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy biết và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy không biết và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy biết và không giấu giếm. Này các tỷ-kheo, sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như nhóm các tội đã được che giấu trong thời gian trước đây và thời gian sau này, rồi mới nên ban cho hành phạt mānatta đến vị tỷ-kheo ấy.

[519] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Một số tội vị ấy biết, một số tội vị ấy không biết. Vị ấy đã giấu giếm các tội vị ấy biết. Các tội vị ấy không biết vị ấy đã không giấu giếm. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy biết và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy biết và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy không biết và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy biết và giấu giếm. Này các tỷ-kheo, sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như nhóm các tội đã được che giấu trong thời gian trước đây và thời gian sau này, rồi mới nên ban cho hành phạt mānatta đến vị tỷ-kheo ấy.

[520] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Vị ấy đã giấu giếm các tội vị ấy nhớ. Các tội vị ấy không nhớ vị ấy đã không giấu giếm. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy nhớ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy không nhớ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm. Này các tỷ-kheo, sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như nhóm các tội đã được che giấu trong thời gian trước đây, rồi mới nên ban cho hành phạt mānatta đến vị tỷ-kheo ấy.

[521] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Vị ấy đã giấu giếm các tội vị ấy nhớ. Các tội vị ấy không nhớ vị ấy đã không giấu giếm. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy nhớ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy không nhớ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và giấu giếm. Này các tỷ-kheo, sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như nhóm các tội đã được che giấu trong thời gian trước đây và thời gian sau này, rồi mới nên ban cho hành phạt mānatta đến vị tỷ-kheo ấy.

[522] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Vị ấy đã giấu giếm các tội vị ấy nhớ. Các tội vị ấy không nhớ vị ấy đã không giấu giếm. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy nhớ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy không nhớ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm. Này các tỷ-kheo, sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như nhóm các tội đã được che giấu trong thời gian trước đây và thời gian sau này, rồi mới nên ban cho hành phạt mānatta đến vị tỷ-kheo ấy.

[523] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Vị ấy đã giấu giếm các tội vị ấy nhớ. Các tội vị ấy không nhớ vị ấy đã không giấu giếm. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy nhớ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy không nhớ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và giấu giếm. Này các tỷ-kheo, sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như nhóm các tội đã được che giấu trong thời gian trước đây và thời gian sau này, rồi mới nên ban cho hành phạt mānatta đến vị tỷ-kheo ấy.

[524] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Vị ấy đã giấu giếm các tội vị ấy không có nghi ngờ. Các tội vị ấy có nghi ngờ vị ấy đã không giấu giếm. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. Này các tỷ-kheo, sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như nhóm các tội đã được che giấu trong thời gian trước đây, rồi mới nên ban cho hành phạt mānatta đến vị tỷ-kheo ấy.

[525] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Vị ấy đã giấu giếm các tội vị ấy không có nghi ngờ. Các tội vị ấy có nghi ngờ vị ấy đã không giấu giếm. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. Này các tỷ-kheo, sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như nhóm các tội đã được che giấu trong thời gian trước đây và thời gian sau này, rồi mới nên ban cho hành phạt mānatta đến vị tỷ-kheo ấy.

[526] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Vị ấy đã giấu giếm các tội vị ấy không có nghi ngờ. Các tội vị ấy có nghi ngờ vị ấy đã không giấu giếm. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. Này các tỷ-kheo, sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như nhóm các tội đã được che giấu trong thời gian trước đây và thời gian sau này, rồi mới nên ban cho hành phạt mānatta đến vị tỷ-kheo ấy.

[527] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Vị ấy đã giấu giếm các tội vị ấy không có nghi ngờ. Các tội vị ấy có nghi ngờ vị ấy đã không giấu giếm. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. Này các tỷ-kheo, sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như nhóm các tội đã được che giấu trong thời gian trước đây và thời gian sau này, rồi mới nên ban cho hành phạt mānatta đến vị tỷ-kheo ấy.

[528] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo sau khi phạm nhiều tội Saṅghādisesa, đã che giấu, rồi xuống sa-di …(như trên)… bị điên …(như trên)… bị loạn trí …(như trên)… (nên giải thích giống như dưới đây) ...(như trên)... bị thọ khổ hành hạ …(như trên)… Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu …(như trên)… Một số tội vị ấy biết, một số tội vị ấy không biết …(như trên)… Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ …(như trên)… Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ vị ấy đã giấu giếm các tội ấy. Các tội vị ấy có nghi ngờ vị ấy đã không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy bị thọ khổ hành hạ. Sau khi đã trở lại hết bị thọ khổ hành hạ, các tội nào trước đây vị ấy không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm…(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm…(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm…(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. Này các tỷ-kheo, sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như nhóm các tội đã được che giấu trong thời gian trước đây và thời gian sau này, rồi mới nên ban cho hành phạt mānatta đến vị tỷ-kheo ấy.

Dứt Một trăm trường hợp mānatta.

[529] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa, đã không che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[530] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa, đã không che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và giấu giếm các tội ấy. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[531] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa, đã che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[532] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa, đã che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và giấu giếm các tội ấy. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[533] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu, và không có che giấu. Vị ấy hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã giấu giếm sau này vị ấy không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không giấu giếm sau này vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[534] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu, và không có che giấu. Vị ấy hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã giấu giếm sau này vị ấy không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không giấu giếm sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[535] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu, và không có che giấu. Vị ấy hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã giấu giếm sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không giấu giếm sau này vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[536] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu, và không được che giấu. Vị ấy hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã giấu giếm sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không giấu giếm sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[537] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Một số tội vị ấy biết, một số tội vị ấy không biết. Các tội nào vị ấy biết vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không biết vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy biết và đã giấu giếm sau này vị ấy biết và không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy không biết và đã không giấu giếm sau này vị ấy biết và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[538] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Một số tội vị ấy biết, một số tội vị ấy không biết. Các tội nào vị ấy biết vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không biết vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy biết và đã giấu giếm sau này vị ấy biết và không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy không biết và đã không giấu giếm sau này vị ấy biết và giấu giếm các tội ấy. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[539] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Một số tội vị ấy biết, một số tội vị ấy không biết. Các tội nào vị ấy biết vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không biết vị ấy đã không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy biết và đã giấu giếm sau này vị ấy biết và giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy không biết và đã không giấu giếm sau này vị ấy biết và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[540] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Một số tội vị ấy biết, một số tội vị ấy không biết. Các tội nào vị ấy biết vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không biết vị ấy đã không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy biết và đã giấu giếm sau này vị ấy biết và giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy không biết và đã không giấu giếm sau này vị ấy biết và giấu giếm các tội ấy. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[541] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy nhớ và đã giấu giếm sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy không nhớ và đã không giấu giếm sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[542] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy nhớ và đã giấu giếm sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy không nhớ và đã không giấu giếm sau này vị ấy nhớ và giấu giếm các tội ấy. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[543] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ vị ấy đã không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy nhớ và đã giấu giếm sau này vị ấy nhớ và giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy không nhớ và đã không giấu giếm sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[544] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ vị ấy đã không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy nhớ và đã giấu giếm sau này vị ấy nhớ và giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy không nhớ và đã không giấu giếm sau này vị ấy nhớ và giấu giếm các tội ấy. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[545] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy không có nghi ngờ và đã giấu giếm sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy có nghi ngờ và đã không giấu giếm sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[546] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy không có nghi ngờ và đã giấu giếm sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy có nghi ngờ và đã không giấu giếm sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm các tội ấy. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[547] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ vị ấy đã không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy không có nghi ngờ và đã giấu giếm sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy có nghi ngờ và đã không giấu giếm sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[548] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ vị ấy đã không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy không có nghi ngờ và đã giấu giếm sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy có nghi ngờ và đã không giấu giếm sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm các tội ấy. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[549] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa, đã che giấu, rồi xuống sa-di …(như trên)… bị điên …(như trên)… bị loạn trí …(như trên)… bị thọ khổ hành hạ …(như trên)… Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu (nên giải thích giống như ở phần dưới đây) …(như trên)… Một số tội vị ấy biết, một số tội vị ấy không biết …(như trên)… Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ …(như trên)… Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ vị ấy đã giấu giếm các tội ấy. Các tội vị ấy có nghi ngờ vị ấy đã không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy bị thọ khổ hành hạ. Sau khi đã trở lại hết bị thọ khổ hành hạ, các tội nào trước đây vị ấy không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm…(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm…(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm…(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[550] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo xứng đáng hành phạt mānatta …(như trên)…

[551] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo là vị đang thực hành hành phạt mānatta …(như trên)…

[552] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo là vị xứng đáng sự giải tội và đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa, đã che giấu, rồi hoàn tục …(như trên)… (Vị xứng đáng hành phạt mānatta, vị thực hành hành phạt mānatta, vị xứng đáng giải tội nên được giải thích như đã giải thích ở phần của vị hành parivāsa).

[553] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo là vị xứng đáng sự giải tội và đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa, đã che giấu, rồi xuống sa-di …(như trên)… bị điên …(như trên)… bị loạn trí …(như trên)… bị thọ khổ hành hạ …(như trên)… Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu …(như trên)… Một số tội vị ấy biết, một số tội vị ấy không biết …(như trên)… Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ …(như trên)… Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ vị ấy đã giấu giếm các tội ấy. Các tội vị ấy có nghi ngờ vị ấy đã không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy bị thọ khổ hành hạ. Sau khi đã trở lại hết bị thọ khổ hành hạ, các tội nào trước đây vị ấy không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ thì không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm…(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm…(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm…(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. Vị tỷ-kheo ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu; và theo như các tội đã được che giấu, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây nên được ban cho vị ấy.

[554] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, đã che giấu, rồi hoàn tục …(như trên)… chưa được xác định, đã không che giấu, rồi hoàn tục …(như trên)… cùng một tội danh, đã không che giấu, rồi hoàn tục …(như trên)… khác tội danh, đã không che giấu, rồi hoàn tục …(như trên)… cùng nhóm phân loại (sabhāgā), đã không che giấu, rồi hoàn tục …(như trên)… khác nhóm phân loại (visabhāgā), đã không che giấu, rồi hoàn tục …(như trên)… riêng biệt (vavatthitā), đã không che giấu, rồi hoàn tục …(như trên)… có liên quan (sambhinnā), đã không che giấu,, rồi hoàn tục …(như trên)…

[Các tội Saṅghādisesa 1, 5, 12, 13 là vavatthitā. Các nhóm tội (2, 3, 4), (6, 7, 8), (9, 10, 11) là sambhinnā. Sabhāgā và visabhāgā cũng tương tự tùy theo phương pháp phân loại.]

[555] Hai vị tỷ-kheo phạm tội Saṅghādisesa. Hai vị có quan điểm là tội Saṅghādisesa trong tội Saṅghādisesa. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội tác ác (dukkataṃ). Và sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta đến cả hai vị.

[556] Hai vị tỷ-kheo phạm tội Saṅghādisesa. Hai vị có nghi ngờ là tội Saṅghādisesa. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội tác ác (dukkataṃ). Và sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta đến cả hai vị.

[557] Hai vị tỷ-kheo phạm tội Saṅghādisesa. Hai vị có quan điểm là tội lẫn lộn (missakaditthino) trong tội Saṅghādisesa. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội tác ác (dukkataṃ). Và sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta đến cả hai vị.

[558] Hai vị tỷ-kheo phạm tội lẫn lộn. Hai vị có quan điểm là tội Saṅghādisesa trong tội lẫn lộn. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội tác ác (dukkataṃ). Và sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta đến cả hai vị.

[559] Hai vị tỷ-kheo phạm tội lẫn lộn. Hai vị có quan điểm là tội lẫn lộn trong tội lẫn lộn. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội tác ác (dukkataṃ). Và sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta đến cả hai vị.

[560] Hai vị tỷ-kheo phạm tội nhẹ (suddhakaṃ). Hai vị có quan điểm là Saṅghādisesa trong tội nhẹ. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội tác ác (dukkataṃ). Cả hai vị nên được xử trí theo Pháp.

[561] Hai vị tỷ-kheo phạm tội nhẹ (suddhakaṃ). Hai vị có quan điểm là tội nhẹ trong tội nhẹ. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội tác ác (dukkataṃ). Cả hai vị nên được xử trí theo Pháp.

[562] Hai vị tỷ-kheo phạm tội Saṅghādisesa. Hai vị có quan điểm là tội Saṅghādisesa trong tội Saṅghādisesa. Một vị (nghĩ rằng): "Ta sẽ sám hối;" vị kia (nghĩ rằng): "Ta sẽ không sám hối." Vị ấy giấu giếm canh thứ nhất, giấu giếm canh thứ nhì, giấu giếm canh thứ ba; khi hừng đông đã hiện ra thì tội đã được giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội tác ác (dukkataṃ). Và sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta đến cả hai vị.

[563] Hai vị tỷ-kheo phạm tội Saṅghādisesa. Hai vị có quan điểm là tội Saṅghādisesa trong tội Saṅghādisesa. Hai vị trong khi đi (bàn bạc rằng): "Chúng ta sẽ sám hối." Trên đường đi, pháp giả dối sanh khởi ở một vị (nghĩ rằng): "Ta sẽ không sám hối." Vị ấy giấu giếm canh thứ nhất, giấu giếm canh thứ nhì, giấu giếm canh thứ ba; khi hừng đông đã hiện ra thì tội đã được giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội tác ác (dukkataṃ). Và sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta đến cả hai vị.

[564] Hai vị tỷ-kheo phạm tội Saṅghādisesa. Hai vị có quan điểm là tội Saṅghādisesa trong tội Saṅghādisesa. Hai vị bị điên. Về sau, khi hai vị hết bị điên, một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội tác ác (dukkataṃ). Và sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta đến cả hai vị.

[565] Hai vị tỷ-kheo phạm tội Saṅghādisesa. Trong khi giới bổn Pātimokkha được ôn đọc lại, hai vị phát biểu như vầy:

- Cho đến hôm nay chúng tôi mới biết được rằng: "Nghe nói Giáo Pháp này được truyền lại từ kinh (suttāgato), được chứa đựng trong kinh (suttapariyāpanno) và được ôn đọc lại mỗi nữa tháng."

Hai vị nhận thức được tội Saṅghādisesa trong tội Saṅghādisesa. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội tác ác (dukkataṃ). Và sau khi ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta đến cả hai vị.

[566] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, chưa được xác định, cùng một tội danh, khác tội danh, cùng nhóm phân loại (sabhāgā), khác nhóm phân loại (visabhāgā), riêng biệt (vavatthitā), và có liên quan (sambhinnā). Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội đến vị ấy. Vị ấy trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định (parimānāyo), không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đến vị ấy dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, giải tội không đúng Pháp. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy không được trong sạch bởi các tội ấy.

[567] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, chưa được xác định, cùng một tội danh, khác tội danh, cùng nhóm phân loại, khác nhóm phân loại, riêng biệt, và có liên quan. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội đến vị ấy. Vị ấy trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đến vị ấy dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, giải tội không đúng Pháp. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy không được trong sạch bởi các tội ấy.

[568] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, chưa được xác định, cùng một tội danh, khác tội danh, cùng nhóm phân loại, khác nhóm phân loại, riêng biệt, và có liên quan. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội đến vị ấy. Vị ấy trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đến vị ấy dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, giải tội không đúng Pháp. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy không được trong sạch bởi các tội ấy.

[569] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, chưa được xác định, cùng một tội danh, khác tội danh, cùng nhóm phân loại, khác nhóm phân loại, riêng biệt, và có liên quan. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội đến vị ấy. Vị ấy trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa không được xác định, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đến vị ấy dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, giải tội không đúng Pháp. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy không được trong sạch bởi các tội ấy.

[570] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, chưa được xác định, cùng một tội danh, khác tội danh, cùng nhóm phân loại, khác nhóm phân loại, riêng biệt, và có liên quan. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội đến vị ấy. Vị ấy trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa không được xác định, có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đến vị ấy dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, giải tội không đúng Pháp. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy không được trong sạch bởi các tội ấy.

[571] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, chưa được xác định, cùng một tội danh, khác tội danh, cùng nhóm phân loại, khác nhóm phân loại, riêng biệt, và có liên quan. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội đến vị ấy. Vị ấy trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa không được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đến vị ấy dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, giải tội không đúng Pháp. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy không được trong sạch bởi các tội ấy.

[572] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, chưa được xác định, cùng một tội danh, khác tội danh, cùng nhóm phân loại, khác nhóm phân loại, riêng biệt, và có liên quan. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội đến vị ấy. Vị ấy trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định và không được xác định, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đến vị ấy dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, giải tội không đúng Pháp. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy không được trong sạch bởi các tội ấy.

[573] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, chưa được xác định, cùng một tội danh, khác tội danh, cùng nhóm phân loại, khác nhóm phân loại, riêng biệt, và có liên quan. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội đến vị ấy. Vị ấy trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định và không được xác định, có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đến vị ấy dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, giải tội không đúng Pháp. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy không được trong sạch bởi các tội ấy.

[574] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, chưa được xác định, cùng một tội danh, khác tội danh, cùng nhóm phân loại, khác nhóm phân loại, riêng biệt, và có liên quan. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội đến vị ấy. Vị ấy trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định và không được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đến vị ấy dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, giải tội không đúng Pháp. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy không được trong sạch bởi các tội ấy.

Dứt Chín trường hợp không được trong sạch từ gốc.

[575] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, chưa được xác định, ...(như trên)... riêng biệt, và có liên quan. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội đến vị ấy. Vị ấy trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định và không có che giấu. ...(như trên)... được xác định và có che giấu. ...(như trên)... được xác định, có che giấu và không có che giấu…(như trên)… Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đến vị ấy dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, giải tội đúng Pháp. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy được trong sạch bởi các tội ấy.

[576] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, chưa được xác định, ...(như trên)... riêng biệt, và có liên quan. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội đến vị ấy. Vị ấy trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa không được xác định và không có che giấu. ...(như trên)... không được xác định và có che giấu. ...(như trên)... không được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đến vị ấy dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, giải tội đúng Pháp. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy được trong sạch bởi các tội ấy.

[577] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, chưa được xác định, ...(như trên)... riêng biệt, và có liên quan. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội đến vị ấy. Vị ấy trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định và không được xác định, không có che giấu. ...(như trên)... được xác định và không được xác định, có che giấu. ...(như trên)... được xác định và không được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đến vị ấy dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, giải tội đúng Pháp. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy được trong sạch bởi các tội ấy.

Dứt Chín trường hợp được trong sạch từ gốc.

[578] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, chưa được xác định, …(như trên)…, riêng biệt, và có liên quan. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội đến vị ấy. Vị ấy trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đến vị ấy dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: "Ta đang hành parivāsa," và đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định và không có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, vị ấy nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác. Vị ấy (suy nghĩ) như sau: "Ta đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, chưa được xác định, …(như trên)…, riêng biệt, và có liên quan. Ta đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến ta. Ta trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng đã cho (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đến ta dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: "Ta đang hành parivāsa,"và đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định không có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, ta nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (cầu xin) hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, (cầu xin) và sự giải tội đúng Pháp." Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội của các tội trước đây và các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (cầu xin) hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (cầu xin) sự giải tội đúng Pháp. Hội chúng cho vị ấy được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy được trong sạch với các tội ấy.

[579] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, chưa được xác định, …(như trên)…, riêng biệt, và có liên quan. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội đến vị ấy. Vị ấy trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định và có che giấu..…(như trên)… được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đến vị ấy dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: "Ta đang hành parivāsa," và đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, vị ấy nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác. Vị ấy (suy nghĩ) như sau: "Ta đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, chưa được xác định, …(như trên)…, riêng biệt, và có liên quan. Ta đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến ta. Ta trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Ta đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Hội chúng đã cho (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng đến ta, đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: "Ta đang hành parivāsa,"và đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, ta nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (cầu xin) hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (cầu xin) sự giải tội đúng Pháp." Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội của các tội trước đây và các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (cầu xin) sự hành parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (cầu xin) sự giải tội đúng Pháp. Hội chúng ban cho vị ấy sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy được trong sạch với các tội ấy.

[580] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, chưa được xác định, cùng một tội danh, khác tội danh, cùng nhóm phân loại, khác nhóm phân loại, riêng biệt, và có liên quan. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội đến vị ấy. Vị ấy trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa không được xác định không có che giấu.…(như trên)… không được xác định có che giấu.…(như trên)… không được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đến vị ấy dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: "Ta đang hành parivāsa,"...(như trên)... ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp, ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy được trong sạch với các tội ấy.

[581] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, chưa được xác định, …(như trên)…, riêng biệt, và có liên quan. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội đến vị ấy. Vị ấy trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định và không được xác định, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đến vị ấy dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Vị ấy, trong khi biết rằng: "Ta đang hành parivāsa" …(như trên)… Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp, ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy được trong sạch với các tội ấy.

[582] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, chưa được xác định, …(như trên)…, riêng biệt, và có liên quan. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội đến vị ấy. Vị ấy trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định và không được xác định, có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đến vị ấy dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: "Ta đang hành parivāsa," và đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định và không được xác định, có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, vị ấy nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác. Vị ấy (suy nghĩ) như sau: "Ta đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, chưa được xác định, …(như trên)…, riêng biệt, và có liên quan. Ta đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến ta. Ta trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định và không được xác định, có che giấu. Ta đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Hội chúng đã cho (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng đến ta, đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: "Ta đang hành parivāsa,"và đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định và không được xác định, có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, ta nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (cầu xin) hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (cầu xin) sự giải tội đúng Pháp." Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội của các tội trước đây và các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (cầu xin) sự hành parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (cầu xin) sự giải tội đúng Pháp. Hội chúng ban cho vị ấy sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy được trong sạch với các tội ấy.

[583] Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, chưa được xác định, …(như trên)…, riêng biệt, và có liên quan. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội đến vị ấy. Vị ấy trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định và không được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đến vị ấy dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: "Ta đang hành parivāsa," và đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định và không được xác định, có che giấu và không có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, vị ấy nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác. Vị ấy (suy nghĩ) như sau: "Ta đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định, không được xác định, …(như trên)…, riêng biệt, và có liên quan. Ta đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến ta. Ta trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định và không được xác định, có che giấu và không có che giấu. Ta đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Hội chúng đã cho (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng đến ta, đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: "Ta đang hành parivāsa,"và đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đã phạm nhiều tội Saṅghādisesa được xác định và không được xác định, có che giấu và không có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, ta nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác. Như vậy thì ta nên cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (cầu xin) hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (cầu xin) sự giải tội đúng Pháp." Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội của các tội trước đây và các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (cầu xin) sự hành parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (cầu xin) sự giải tội đúng Pháp. Hội chúng ban cho vị ấy sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo ấy được trong sạch với các tội ấy.

Dứt Chương Tích Lũy Tội là chương thứ ba.

Tóm lược chương này:

[584]

Không che giấu một ngày,
hai ngày, rồi ba ngày,
bốn ngày, và năm ngày,
nữa tháng, hoặc mười ngày,
bậc ẩn sĩ thuyết tội,
trong sạch, và hoàn tục,
các tội được xác định.
Có hai vị tỷ-kheo
trường hợp này suy nghĩ
cả hai đều nghi ngờ,
có quan điểm lẫn lộn,
lẫn lộn và không lẫn,
một vị nghĩ tội nặng,
vị kia nghĩ tội nhẹ,
rồi một vị giấu giếm,
vị kia không giấu giếm,
và rồi pháp giả dối,
bị điên và sám hối,
mười tám lại từ đầu,
và rồi được trong sạch.
Các lời thuyết giảng này
để tồn tại Chánh Pháp
chính là sự ban cho
của các giáo thọ sư
của nhóm Vibhajja
là các vị thường trú
Mahāvihāra
đảo Tambapanni
(là Tích Lan) xinh đẹp.

-ooOoo-

Previous page Top page Next page