Lý Thuyến Nhân Tính Qua Kinh Tạng Pali

LÝ THUYẾT NHÂN TÍNH
QUA KINH TẠNG PALI
Luận Án Tiến Sỉ Phật Học Thích Chơn Thiện. Viêt Dịch: Tâm Ngộ 1999

PHẦN II
GIÁO LÝ DUYÊN KHỞI
CHƯƠNG 1

Ðể hiểu rõ giáo lý Duyên khởi vốn vượt khỏi các quan điểm nhận thức, chúng ta cần hiểu ý nghĩa các chi phần của nó.

Ý NGHĨA CỦA DUYÊN KHỞI

II. 1.1: Nhân Duyên - Lý Duyên Khởi - Năng Duyên - Sở duyên

Nhân duyên là gì?

Khi cái này có mặt, cái kia có mặt.
Khi cái này không có mặt, cái kia không có mặt.

‘Cái này’ được gọi là ‘nhân’ của ‘cái kia’. Nói khác đi, ‘nhân’ của một pháp là nhân tố chính quyết định sự có mặt của pháp ấy. Ví như hạt xoài là ‘nhân’ của cây xoài. Theo lời dạy của đức Phật, hạt xoài gọi là nhân chính (Paccaya hay Hetu); các nhân tố khác tạo nên cây xoài được gọi là ‘duyên’ (nidàna hay paccaya). Trong tiếng Pàli, cái nhân chính được gọi là ‘hetu’. ‘Samudaya’, các nhân khác thì gọi là: ‘paccaya’ hay ‘nidàna’. Cả hai nhân chính, và các nhân khác đều được gọi chung là ‘nidàna’.

Thế nào là Lý Duyên Khởi?

Ðức Phật dạy:

‘Do duyên Vô minh, Hành sinh; do duyên Hành, Thức sinh; do duyên Thức, Danh-sắc sinh; do duyên Danh sắc, Lục nhập sinh; do duyên Lục nhập, Xúc sinh do duyên Xúc, Thọ sinh; do duyên Thọ; Ái sinh, do duyên Ái; Thủ sinh, do duyên Thủ; Hữu sinh, do duyên Hữu; Sinh sinh, do duyên Sinh, Lão tử sinh, do duyên Lão tử, sầu - bi - khổ - ưu - não sinh. Như vậy là sự sinh khởi của toàn bộ khổ uẩn này. Này các Tỷ kheo, đây gọi là ‘Duyên Khởi’.

Nhưng từ sự tan biến và chấm dứt hoàn toàn Vô minh, Hành chấm dứt; từ sự chấm dứt của Hành, Thức diệt; do Thức diệt mà Danh - sắc diệt...; do Sinh diệt, mà Lão - tử - sầu - bi - khổ - ưu não diệt. Như vậy là sự chấm dứt hoàn toàn toàn bộ khổ uẩn này’(1).

Lý Duyên Khởi là gì?

‘Này các Tỷ kheo, lý Duyên khởi là gì? Do duyên Sinh, Lão tử có mặt. Này các Tỷ kheo, dù chư Như Lai có xuất hiện ở đời hay không xuất hiện ở đời, bản chất này của các pháp vẫn thế, vẫn quyết định tánh ấy, vẫn theo duyên như thế. Như Lai hoàn toàn chứng ngộ, hoàn toàn chứng đạt nguyên lý Duyên Khởi. Hoàn toàn chứng ngộ, chứng đạt Như Lai tuyên bố, tuyên thuyết, khai triển, khai thị, minh hiển nguyên lý ấy, Ngài dạy do duyên Sinh, mà có Lão tử..., Do duyên Vô minh mà có Hành’ (2)

Các pháp do duyên mà sinh là gì?

‘Và này các Tỷ kheo, các pháp do duyên mà sinh là gì? Lão tử là vô thường, được tạo thành là do duyên mà sinh, là hoại dần, là tan rã, là đoạn diệt. Cũng thế, Sinh, Hữu, Thủ... Hành và Vô minh. Này các Tỷ kheo đây gọi là các pháp do duyên mà sinh’ (3)

Như lời dạy của Ðức Phật vừa được trích dẫn, các pháp là do duyên mà sinh (hay gọi là: các pháp là duyên sinh). Thực sự, chỉ có mặt các duyên sinh ra pháp nên nó là vô ngã. Con người cũng là một hiện hữu ‘duyên-sinh’ nên vô ngã. Những ai thấy rõ sự thật Duyên Khởi này thì thấy các pháp; những ai thấy rõ các pháp, thì thấy rõ nguyên lý Duyên Khởi, và những ai thấy rõ các pháp thì thấy chính đức Như Lai, đức Phật dạy:

‘Này Vakkali! Có gì để thấy cái thân hôi hám này của Ta? Ai thấy pháp, này Vakkali, thì thấy Ta; ai thấy Ta thì thấy Pháp’ (4)

Và:

‘Ðiều này đã được Như Lai dạy: Ai thấy Duyên Khởi thì thấy pháp, ai thấy Pháp thì thấy Duyên Khởi. Những pháp này thì do duyên tạo ra: đó là Năm thủ uẩn. Bất cứ sự ham muốn dục lạc, ưa thích, nắm giữ nào đối với Năm thủ uẩn đều là sự sinh khởi của khổ đau. Bất cứ sự chế ngự tham ái, chấp thủ, sự từ bỏ tham ái và chấp thủ nào đối với Năm thủ uẩn đều là sự đoạn diệt khổ đau. Cho đến như thế này, này các Tỷ kheo vị Tỷ Kheo đã làm được nhiều’ (5).

Các trích dẫn trên, theo tác giả, vạch ra ba điểm rất quan trọng:

- Sự thật của các pháp, của Duyên Khởi và của Như Lai chỉ là một. Nói khác đi, chỉ có một sự thật tối hậu cho vạn hữu trong vũ trụ này.

- Con người chỉ là Năm thủ uẩn, chúng do duyên mà sinh nên vô ngã. Như thế , lý thuyết về Nhân Tính của Phật giáo hẳn là phát sinh từ hai giáo lý trên.

- Sự đau khổ và hạnh phúc của con người chính là sự sinh khởi hay chấm dứt tham ái đối với Năm thủ uẩn. Ðiều phát hiện này sẽ rất hữu ích đối với các nhà giáo dục trong việc mở ra một huớng giáo dục vì hạnh phúc của con người.

Có một điểm khác nữa cần được chú ý: ý nghĩa ‘Thấy Duyên Khởi’ là ý nghĩa kết quả của sự chế ngự lòng tham ái và chấp thủ Năm thủ uẩn đòi hỏi một sự giáo dục huấn luyện và tu tập tâm thức. Nói cách khác, nó đòi hỏi một đường hướng giáo dục.

II.1.2. Ý Nghĩa Mười Hai Phần Duyên Khởi

Trước tiên, ý nghĩa của từng chi phần Duyên Khởi cần được nắm vững, đó là: Vô minh (Avijjà), Hành (Sankhàra), Thức (Vijnãna), Danh sắc (Nàma-Rùpa), Lục nhập (Salayatana), Xúc (Phassa), Thọ (Vedàna), Ái (Tanhà), Thủ (Upàdàna), Hữu (Bhava), Sinh (Jàti), Lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não (Jàra-marana,...)

Trong một số bản kinh, đức Phật giới thiệu Duyên Khởi dưới dạng thức tám chi phần, chín, mười chi phần như sau:

‘Như vậy, này Ananda, Danh sắc duyên Thức và Thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Xúc, xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sinh, Sinh duyên Lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não. Như vậy toàn bộ khổ uẩn này sinh khởi’(6)

Trích dẫn trên chỉ đề cập tám chi phần Duyên Khởi. Phần trích dẫn tiếp theo đề cập mười chi phần:

‘Này các Tỷ kheo, rồi Bồ tát Tỳ-bà-thi (Vipassì) tác ý: ‘Thức này quay về Danh sắc, nó không rời xa. Cho đến như vầy, Sinh, Lão tử có mặt và ở vào cảnh giới khác và tái sinh, gọi là: Danh sắc duyên Thức và Thức duyên danh sắc, Danh sắc duyên Lục nhập, Lục nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, thọ duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sinh, Sinh duyên lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não. Và như vậy toàn bộ khổ uẩn sinh khởi’ (7).

Hình thức ngắn gọn nhất chỉ đề cập năm chi phần được đức Phật dạy như sau:

‘Này các Tỷ kheo, sự sinh khởi của khổ là gì? Do căn và trần gặp gỡ, thức khởi lên; sự gặp gỡ của căn, trần và thức gọi là Xúc; duyên Xúc mà Cảm thọ sinh khởi; do Cảm thọ mà Ái sinh. Này các Tỷ kheo, đây gọi là sự sinh khởi của khổ’(8)

Thực ra, tùy theo nơi nào mà Ðức Phật cảm thấy cần thiết trình bày Duyên Khởi dưới dạng thức nào (năm, tám, chín, mười hay mười hai chi phần). Sau đây là hình thức Duyên Khởi được trình bày qua hai mươi ba chi phần:

‘Này các Tỷ kheo, vì thế cho nên Hành duyên với Vô minh, Thức duyên với hành, Danh sắc duyên với Thức..., Khổ duyên với Sinh, Khổ sinh Tín, Tính sinh Hỷ, Hỷ sinh lạc, Lạc sinh Khinh an, Khinh an sinh Ðịnh, Ðịnh sinh Tri kiến như thật, Tri kiến như thật sinh Nhàm chán, Nhàm chán sinh Ly tham, Ly tham sinh Giải thoát, Giải thoát sinh Tri kiến giải thoát’ (9)

Trong các hình thức trên của Duyên Khỏi qua kinh tạng Pàli, hình thức mười hai chi phần nhân duyên được xem là tiêu biểu nhất để khảo sát trong tác phẩm này.

Tất cả các hình thức Duyên Khởi vừa giới thiệu đều trình bày quá trình tâm thức vận hành từ Vô minh đến khổ đau, hay nhận thức về sự chấm dứt khổ đau, và trình bày sự thật của con người, cuộc đời và mối liên hệ giữa con người và cuộc đời. Phần này sẽ được thảo luận tiếp.

Vô minh (Avijjà):

Thế nào là Vô minh? - Ðức Phật định nghĩa:

‘Không biết khổ, sự sinh khởi của khổ, sự chấm dứt của khổ, và con đường dẫn đến sự chấm dứt của Khổ, đây gọi là Vô minh’ (10)

Không biết Khổ, sự sinh khởi của Khổ v.v... có nghĩa là không biết rõ Tứ đế, Nhân quả và Duyên Khởi; đây gọi là Vô minh.

Trong bản kinh ‘Chánh Tri Kiến’ (Trung Bộ I, PTS, London 1987, p. 70), Tôn giả Sàriputta, vị Tướng quân Chánh pháp, định nghĩa:

‘Này chư Hiền giả, khi nào vị Thánh đệ tử biêt rõ các lậu hoặc là như vậy, biết rõ sự sinh khởi của các lặu hoặc là như vậy, biết sự chấm dứt các lậu hoặc là như vậy, biết con đường đưa đến sự chấm dứt các lậu hoặc là như vậy, thì vị ấy đoạn trừ tất cả tùy miên của tham, xóa tan tất cả tùy miên của sân, nhổ sạch gốc rễ của tất cả tùy miên của cái tri kiến ‘Tôi hiện hữu’ (ngã mạn tùy miên), loại trừ hết thảy vô minh, làm cho minh trí khởi lên, chấm dứt khổ đau ngay trong hiện tại và tại đây’ (11)

Ðịnh nghĩa của Tôn giả Xá-lợi-phất (Sàriputta) nói lên rằng khái niệm ‘tôi là’, ‘tôi đã là’, hay ‘tôi sẽ là’, hay khái niệm về Nhân Tính rằng Nhân tính là thế này, thế kia là Vô minh. Và, chính Vô minh là suối nguồn của tà kiến, của các Hành và Khổ đau. Chính sự vận hành của Vô minh dẫn đến Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão tử...; vì thế nên nỗi chi phần của Duyên khởi đều mang ý nghĩa khổ đau; con người và cuộc đời khổ đau.

Hành (Sankhàra):

Thế nào là các Hành? - Ðức Phật dạy:

‘Có ba Hành: Thân hành, khẩu hành và ý hành. Ðây là ba Hành (12)

Lời dạy này có ý nghĩa rằng tất cả các hành động của toàn bộ con người gọi là Hành.

Một lần khác, đức Phật dạy:

‘Này các Tỷ kheo, thế nào là Hành? Ðấy là sáu chỗ của tư: sắc tư, thanh tư, hương tư, vị tư, xúc tư và pháp tư. Này các Tỷ kheo, đây là Hành’ (13).

Sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp là những gì làm nên thế giới hiện tượng, và các Hành thì xuất hiện như là các năng lực tâm lý của thế giới hiện tượng. Thế giới mà con người đang thấy thực sự là thế giới do các Hành tạo nên, và là kết quả của cái mà con nguời gọi là ‘Ý chí sống - hay ý chí muốn sống’.

Các Hành còn mang ý nghĩa như được biểu lộ trong lời dạy sau:

‘Này các Tỷ kheo, cái chúng ta tư niệm, tư lường, có thầm ý, cái ấy trở thành đối tượng cho Thức tồn tại; khi nào đối tượng có mặt thì Thức tồn tại. Do Thức ấy tồn tại và phát triển nên Danh sắc sinh khởi; do Danh sắc, Lục nhập sinh khởi; do Lục nhập, Xúc sinh khởi, do Xúc..., ... sầu, bi, khổ, ưu, não sinh khởi. Như vậy là sự sinh khởi toàn bộ khổ uẩn này.

Ngay cả khi không có tư niệm, không có tư lường, nếu có thầm ý đến hiện hữu (sự vật), sự việc ấy trở thành đối tượng của Thức. Nhưng nếu không có tư niệm, không có tư lường, cũng không có thầm ý đến sự vật, thì sẽ không có đối tượng cho Thức tồn tại. Khi không có đối tượng cho Thức tồn tại, sẽ không có sự tồn tại của Thức. Thức không tồn tại hay phát triển, thì sẽ không có sự sinh khởi của Danh sắc; như vậy là sự chấm dứt của Lục nhập..., của xúc..., của Thọ,... của Ái... của Thủ..., của Hữu.., của sầu, bi, khổ, ưu não. Như vậy là sự chấm dứt toàn bộ khổ uẩn này’ (14).

Phần vừa trích dẫn nói lên Hành là Nghiệp lực của con nguời, là nguyên nhân của khổ đau ở đời, và là nguyên nhân của sự tái sinh.

Thức (Vinnàna):

Thế nào là Thức? - Ðức Phật dạy:

‘Có sáu nhóm Thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức’ (15).

Thức được giải thích rằng:

Này các Tỷ kheo, tại sao gọi là Thức? - Rõ biết, này các Tỷ kheo, nên gọi là Thức. Rõ biết gì? - Rõ biết chua, đắng, cay, ngọt, rõ biết chất kiềm... không phải chất kiềm, rõ biết mặn, không phải mặn. Rõ biết này các Tỷ kheo, nên gọi la Thức’ (16)

Các nhà chú giải kinh cắt nghĩa từ ‘thức’ như sau:

- Thức có nghĩa là tưởng tri (sanjanàti) - Biết và không có phản ứng tâm lý.

- Thức có nghĩa là thức tri (vijanàti) - phân biệt.

- Thức có nghĩa là hiểu biết (Pajanàti) - quyết định.

Biết về ‘sáu trần’, như đức Phật xác dịnh, là suối nguồn của kiến thức, lòng đắm trước và khổ đau của con người. Nó làm khởi sinh Danh sắc và các phần tố khác của Duyên khởi, nó là chủ thể của nhận thức, đối tượng của nhận thức, và là nội dung của nhận thức. Nó có mặt trong thân hành, khẩu hành và ý hành.

Danh sắc (Nàma-Rùpa):

Danh sắc là gì? - Ðức Phật định nghĩa:

‘Thọ, Tưởng, Tư , Xúc và Tác ý; đây gọi là Danh. Tứ đại và sắc do Tứ đại sanh; đây gọi là Sắc. Ðây là Danh, đây là Sắc gọi là Danh-Sắc’. (17)

Thọ, Tưởng, Tư, Xúc, và Tác ý, từ trích dẫn trên, là thuộc Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn và Thức uẩn; Sắc ấy là Sắc uẩn. Như vậy Danh sắc là Năm thủ uẩn. Trong kinh ‘Ðại Duyên’ Trường bộ kinh, đức Phật đã cắt nghĩa rằng:

‘Ta đã nói rằng do có Thức mà Danh sắc sinh. Này Ananda, phải hiểu như thế nào về câu nói ấy. Nếu Thức không đi vào trong bào thai của người mẹ, thì Danh sắc có thể được hình thành trong bào thai của mẹ không? - Bạch Thế Tôn, không. Nếu Thức sau khi đi vào trong bào thai của mẹ rồi bị diệt đi, thì Danh sắc có được sinh ra dưới hình thái này không? - Bạch Thế Tôn, không. Nếu Thức bị đoạn trừ nơi đứa bé, hay nơi đồng nam, đồng nữ, thì Danh sắc có thể trưởng thành, phát triển, hoàn mãn được không? - Bạch Thế Tôn không. Này Ananda, do đó như vậy là nhân, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhân duyên của Danh sắc, tức là Thức’ (18).

Trong sự liên hệ của mười hai chi phần Duyên Khởi như được trình bày ở trên, sẽ không đúng nói rằng Danh sắc và Thức là giống nhau hay khác nhau, bởi vì cả hai không phải là những thực thể có ngã tính cố định, mà chúng chỉ liên hệ mật thiết với nhau: trong Thức có mặt mười một chi phần kia; cũng thế, trong Danh sắc có mặt mười một chi phần còn lại. Cả hai đều do Vô minh mà sinh, và cả hai đều dẫn đến khổ đau.

Lục nhập (Salayatana):

Lục nhập là gì?

‘Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Ðây gọi là Lục nhập’ (19)

Nói Lục nhập là nói sự gặp gỡ giữa sáu căn và sáu trần. Khi sự gặp gỡ xuất hiện thì Thức xuất hiện; như thế Lục nhập tự nó bao hàm Vô minh và khổ đau.

Xúc (Phassa):

Xúc là gì?

- ‘Có sáu xúc: nhãn xúc, nhĩ xúc, tì xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc. Ðây gọi là Xúc’ (20)

Xúc chỉ là sự gặp gỡ của ba yếu tố: căn, trần, và thức tương ưng với căn. Ðây cũng là ý nghĩa của sự gặp gỡ của chủ thể nhận thức, đối tượng nhận thức và nội dung nhận thức. Như vậy, Xúc là sự biểu hiện của Thức, Vô minh hay Khổ đau.

Thọ (Vedàna):

Thọ là gì? Ðức Phật dạy:

‘Có sáu Thọ: thọ phát sinh từ nhãn xúc, Thọ phát sinh từ nhĩ xúc, từ tỉ xúc, từ thiệt xúc, từ thân xúc và từ ý xúc. Ðây gọi là Thọ’ (21)

Có ba thứ cảm thọ như thường được giới thiệu trong nhiều kinh thuộc kinh tạng Nikàya: Cảm thọ hạnh phúc, cảm thọ khổ đau, và cảm thọ không hạnh phúc không khổ đau.

Cảm thọ hạnh phúc thì luôn luôn sản sinh tham ái trong lòng người. Cảm thọ khổ đau thì luôn luôn đem lại sân hận. Cảm thọ không hạnh phúc không khổ đau thì luôn luôn nuôi dưỡng si mê. Như thế, Thọ là suối nguồn nuôi dưỡng tham, sân, si. Nó thực sự là yếu nhân tạo nên sinh tử và khổ đau.

Tham ái (tanhà):

Tham ái là gì? - Ðức Phật chỉ rõ:

‘Có sáu nhóm Ái: ái sắc, ái thinh, ái hương, ái vị, ái xúc và ái pháp. Ðây gọi là Ái’ (22).

Trong khi ‘Chánh Tri Kiến’ (Trung bộ I), Tôn giả Xá-lợi-phất bàn đến ba nhóm ái như sau:

‘Này chư Hiền, thế nào là sự sinh khởi của khổ đau? - Chính Ái hướng đến một đời sống khác, đi cùng với hỷ và tham, tìm kiếm hỷ lạc tại chỗ này, chỗ kia, đó là dục Ái, hữu Ái và vô hữu Ái. Này chư Hiền, đây gọi là nguồn gốc của khổ đau’ (23)

Khát Ái các lạc thú có nghĩa là khát ái vị ngọt của sắc, thinh, hương, vị và xúc. Ðây là dục lạc.

Khái ái hiện hữu (hay hữu ái) là sự khát ái có mặt và tồn tại ở một cảnh giới tốt đẹp, hạnh phúc hơn và tinh tế hơn.

Khát ái không hiện hữu (hay vô hữu ái) là khát ái sự không có mặt, không hiện hữu, bởi vì do nhàm chán hiện hữu.

Như mọi người có thể kinh nghiệm trong đời sống hàng ngày, con người sinh ra để sống với khát vọng hạnh phúc và lạc thú từ sáu trần. Chẳng may, mọi vật, mọi lạc thú đều vô thường qua từng sát na, và sự kiện này khiến con người sầu khổ và khiến dục vọng bốc cháy. Dục vọng càng bốc cháy thì khổ đau lại càng nhiều... Ðiều này thổ lộ Tham ái chính là căn gốc của khổ đau, nó chính là khổ đau.

Chấp thủ là gì?

- ‘Có bốn thứ chấp thủ: dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ và ngã luận thủ. Ðây gọi là chấp thủ’ (24).

Sự thật khổ đau của cuộc đời đã khiến con người nắm giữ lòng ham muốn, và nắm giữ các đối tượng ham muốn, xem đấy là con đường tìm kiếm hạnh phúc. Rồi con người đi đến xem dục vọng và tư duy như là tự ngã của mình, thực ngã của mình. Hiện tượng này phát sinh từ sự chấp thủ dục vọng, chấp thủ sự thấy biết và chấp thủ các lý thuyết hữu ngã, và làm tăng cường Vô minh và khổ đau. Mặt khác, tư duy hữu ngã của con nguời cũng sản sinh lòng tham ái và chấp thủ.

Hữu (bhava):

Thế nào là Hữu? Hữu được định nghĩa rằng:

‘Có ba Hữu: dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu’ (25)

Hữu nghĩa là cảnh giới hiện hữu. Hữu chỉ các cảnh giới mà chúng sinh có mặt.

Thế giới của cõi Dục (dục hữu) là các thế giới mà chúng sinh tham đắm sắc, thinh, hương, vị và xúc. Thế giới của cõi Sắc (Sắc hũu) là các cảnh giới mà chúng sinh tham đắm các sắc tế nhị, tham đắm sự hiện hữu và tồn tại. Thế giới của cõi Vô sắc (Vô sắc hữu) là các cảnh giới mà các chúng sanh nhàm chán dục lạc và nhàm chán hiện hữu; các chúng sanh ấy có khuynh hướng mong muốn không hiện hữu. Hữu như thế là sự biểu hiện của lòng khát ái.

Sanh (Jàti):

Sanh là gì? Sanh được cắt nghĩa như sau:

‘Cái thuộc chúng sinh, thuộc nhóm chúng sinh này hay chúng sinh khác, là sanh, xuất sanh, giáng sanh, đản sanh, sự xuất hiện của các uẩn, sự hình thành các xứ. Ðây gọi là sanh’ (26).

Ðối với con người, sự xuất hiện của Danh sắc hay Năm uẩn thì gọi là Sanh. Sanh như thế là sự xuất hiện của Vô minh và Khổ đau.

Già chết (Jàra-marana):

Già chết là gì? Nghĩa là:

‘Cái thuộc chúng sinh, thuộc nhóm chúng sinh này hay nhóm chúng sinh khác, là già, yếu, suy nhược, răng rụng, tóc bạc, da nhăn, tuổi thọ lụn bại, các căn suy hoại. Ðây gọi là già. Cái thuộc chúng sinh bộ loại này hay chúng sinh bộ loại khác là chết, là sự tách rời, là sự tiêu mất, là tử vong: các uẩn tan rã, vứt bỏ: Ðây gọi là chết. Như vậy đó là già, là chết, và đó là Già Chết’ (27).

Với con người, già chết tự nó đã khổ đau. Chính hình ảnh hủy diệt của mọi hiện hữu duyên sinh là trái với lòng ham muốn của con người, rất kinh khiếp đối với mọi người .

Trên đây là ý nghĩa của mười hai chi phần Duyên Khởi đã được Ðức Phật giải thích. Sự vận hành của mười hai chi phần ấy sẽ tạo nên cái gọi là toàn bộ sự hiện hữu của con người sẽ được tác giả bàn tiếp.

II.1.3: Sự Vận Hành Của Mười Hai Chi Phần Duyên Khởi

Dưới cội Bồ đề, đức Phật khởi lên ý nghĩ:

* Không có Sinh thì Khổ đau không có mặt
* Không có Hữu thì Sinh không thể có mặt.
* Không có Thủ thì Hữu không thể có mặt;
* Không có Ái thì Thủ không thể có mặt.
* Không có Thọ thì Ái không thể có mặt.
* Không có Xúc thì Thọ không thể có mặt.
* Không có Lục nhập thì Xúc không thể có mặt.
* Không có Danh sắc thì Lục nhập không thể có mặt.
* Không có Thức thì Danh sắc không thể có mặt.
* Không có Hành thì Thức không thể có mặt.
* Không có Vô minh thì Hành không thể có mặt.

Như thế, Vô minh là suối nguồn của dòng đời khổ đau. Nhưng nó là do duyên mà sinh, chứ không phải là nguyên nhân đầu tiên như đức Phật đã giảng.

‘Này các Tỷ kheo, điểm khởi đầu của Vô minh là không thể biết được để nói rằng: ‘trước đó Vô minh không có mặt; Vô minh có mặt từ đó’. Này các Tỷ kheo, lời nói này được tuyên bố. Tuy nhiên điều này là biết được: Vô minh là do duyên này duyên kia mà sinh khởi’ (28).

Không biết rằng mọi hiện hữu là do duyên mà sinh là Vô minh. Từ sự vô minh này, con người đi đến chấp thủ cái tự ngã tưởng tượng kia rồi lại sinh khởi Vô minh và nuôi dưỡng Vô minh. Do tà kiến và tà tư duy này con người đi tìm kiếm sự thật của tự ngã của mình, và tìm kiếm nguyên nhân đầu tiên của thế giới. Cái tư duy hữu ngã đó làm dấy lên lòng tham ái, sân hận và si mê vốn là động cơ của các hành động thân, miệng, ý của con người. Sự kiện này gây ra cho con người lắm phiền não.

Một khi tư duy hữu ngã vận hành, thì Thức có mặt và vận hành; sự vận hành của Thức đòi hỏi sự có mặt của chủ thể nhận thức (Thức), đối tượng nhận thức (Danh sắc hay Lục nhập hoặc thế giới bên ngoài) và sự gặp gỡ của chủ thể và đối tượng nhận thức (Xúc). Bấy giờ Cảm thọ tức thì xuất hiện. Như thế, các chi phần Duyên Khởi: Vô minh, Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc và Thọ cùng có mặt trong mọi quá trình vận hành của tâm lý.

Cảm thọ bao gồm phản ứng của tâm lý, đó là Ái hay Sân, hay Si, hoặc hai trong ba thứ ấy. Ái tự nó bao hàm chấp thủ. Chúng là vô cùng và biểu hiện dưới vô vàn hình thức bất tận. Ðiều này đòi hỏi sự hiện hữu của các thế giới, hay Tam hữu (tibhava). Nói tóm, một khi tư duy hữu ngã vận hành thì mười hai chi phần Duyên Khởi vận hành. Các chi phần ấy đều vô ngã, vô thường và dẫn đến khổ đau.

Thế nên, con người chẳng là gì khác hơn sự vận hành của mười hai chi phần Duyên Khởi dẫn đến khổ đau, nếu tâm con người bị tư duy hữu ngã chế ngự. Nếu tư duy vô ngã, hay sự giác tĩnh Duyên Khởi, vận hành thì sự vận hành này sẽ dẫn tới sự đoạn diệt của mười hai chi phần ấy, hay sự đoạn diệt khổ đau. Bấy giờ con người xuất hiện là con người của cái nhìn vô ngã về sự vật và của hạnh phúc trong hiện tại và tại đây. Con người thực sự chứng tỏ rằng giấc mơ dài và thiết thân của mình và giáo dục trở thành hiện thực.

Thực tế, chính tư duy hữu ngã hay vô ngã của con người tạo ra các giá trị của vạn hữu, đánh giá vạn hữu, và mở ra hướng văn hóa của nhân loại. Nhìn tổng quát, nền văn hóa hiện nay đã được tạo nên, đã và đang bị chế ngự bởi tư duy hữu ngã (hay vô minh), cái nhân tố đã sản sinh ra vô số nhân sinh quan, vũ trụ quan, giá trị con người, và cả các cuộc khủng hoảng này có thể tìm thấy trong sự vận hành của tư duy vô ngã đến từ cái nhìn trí tuệ của Duyên Khởi sẽ được bàn đến trong phần tiếp theo của tác phẩm này.

Chú thích:

(1) : Kindred Sayings, Vol. II., PTS, London, 1990, pp 1-2.
(2) : Kindred Sayings, Vol. II,..., p. 21.
(3) : Kindred Sayings, vol. II,..., p. 22.
(4) : Kindred Sayings, Vol. III, PTS, London, 1992, p. 103.
(5) : Middle Length Sayings, Vol. I, PTS, London, 1987, pp. 236-237.
(6) : “The Great Discourse on Origination”, Long Discourses, tr. by Maurice Walshe, Wisdom Publications, London, 1987, p. 50.
(7) : “Great Discourse on Subline Story”,..., p. 211.
(8) : Kindred Sayings, Vol. II, PTS, London, 1990, p. 50.
(9) : Kindred Sayings, Vol. II,..., pp. 26-27.
(10) : Kindred Sayings, Vol. II,..., p. 4.
(11) : “Discourse on Right View”, Middle Length Sayings, Vol. I, PTS, London, 1987, p. 70.
(12) : Kindred Sayings, Vol. II,..., p. 4.
(13) : Kindred Sayings, Vol. III, PTS, London, 1992, p.53.
(14) : Kindred Sayings, Vol. II, PTS, London, 1987, p. 46.
(15) : Kindred Sayings, Vol. II,..., p. 4.
(16) : Kindred Sayings, Vol. III,... p. 74.
(17) : Kindred Sayings, Vol. II,..., p. 4.
(18) : Kindred Sayings, Vol. II,..., p. 4.
(19) : Kindred Sayings, Vol. II,..., p. 4.
(20) : Kindred Sayings, Vol. II,..., p. 4.
(21) : Kindred Sayings, Vol. II,..., p. 4.
(22) : Kindred Sayings, Vol. II,..., p. 4.
(23) : Kindred Sayings, Vol. II,..., p. 4.
(24) : “Discourse on Right View”, Middle Length Sayings, Vol. I, PTS, London, 1987, p. 60
(25) : Kindred Sayings, Vol. II,..., p. 3.
(26) : Kindred Sayings, Vol. II,..., p. 3.
(27) : Kindred Sayings, Vol. II,..., p. 3.
(28) : Gradual Sayings, Vol. V, PTS, London, 1986, p. 78.

-ooOoo-

Previous page

Top page

Next page