THỰC TẠI & CHÍ ÐẠO
Tác Giả: Phổ Nguyệt
Xuất Bản Năm 2002
|
PHẦN I
CHƯƠNG HAI
TRI KIẾN THIÊN CHÚA GIÁO
Phần Tri Kiến Thiên Chúa Giáo được trình bày vài
nhân vật tiêu biểu trích trong Tạp chí Triết 1 & 2, mục điểm sách Karl Jaspers
do LS Nguyễn Hữu Liêm soạn dịch.
JESUS
Jesus đi vào con đường tư tưởng và hành động bằng một tiền đề chắc nịch và
quyết định: Thế giới nầy đã đến ngày cùng tận. Một mối họa hãi hùng sẽ đến và
đến rất gần trong cuộc đời của ông. Jesus nằm trong bối cảnh thần luận của Do
Thái với tất cả những kháì niệm về ngày tận thế. Nhưng thông điệp của ông thì
khẩn thiết hơn: “Này ta nói cho các ngươi nghe, rằng thế hệ nầy sẽ không qua
khỏi. Thế hệ của thời Jesus sẽ chứng cảnh mặt trời sẽ tối đi, mặt trăng sẽ không
có ánh sáng và sao trên trời sẽ rơi xuống”. Một số ít người sẽ được cứu rỗi và
sẽ thấy" “Con của Cha trên trời”. Tận thế sẽ là mốc điểm tối hậu cho mọi mục
đích và lý tưởng hiện hữu. Và tận thế không có nghĩa là hết tất cả, là hư vô -
mà là lúc khởi sinh của một hiện hữu vĩnh cửu huy hoàng hơn: Thiên Ðường. Cái
chung cuộc không những chỉ là một lời đe dọa mà là sự hứa hẹn lớn: Vương quốc
của Thượng Ðế (nước Chúa). Jaspers nhận xét, “Cảm giác là sự lẫn lộn của sợ hãi
và hồ hởi”. Con người tiếp nhận thông điệp nầy của Jesus đối diện với một khả
thể chắc chắn: lịch sử và thế gian nầy sẽ không còn nữa. Và hành trang dự bị chỉ
có thể là niềm tin.
Nhưng gốc rễ vương quốc nầy đã nằm ngay nơi thế gian và nhân loại nầy, “vương
quốc của Thượng Ðế là ở trong chính ngươi”. Có nghĩa rằng những dấu hiệu của
vương quốc, Jesus, con người của ông, hành vi, thông điệp, là ở giữa thế gian.
Tất cả là dấu hiệu của sự sắp xẩy ra. Khi ngày ấy đến thì kẻ mù sẽ sáng, kẻ què
sẽ bước đi, người cùi sẽ hết hủi, kẻ điếc nghe, kẻ chết đội mồ sống dậy”. Thông
điệp của Jesus là cho người nghèo, kẻ khó, kẻ tật nguyền, kẻ yếu đuối tinh thần.
“Những hành động của Jesus, như là của một người làm được nhiều phép lạ, hành
vi của ông đối với kẻ có tội, kẻ ngoại đồ, kẻ đĩ điếm, ngôn từ của ông khuấy
động tâm hồn cho kẻ lắng nghe: Tất cả đều là của những báo hiệu và những thí dụ.
Chủ đích của ông không là để phát huy thế giới nầy, không để cải cách con người
và cơ chế của họ, nhưng mà để cho những ai lắng tai nghe ông nhận ra rằng vương
quốc của Thượng Ðế là trong tầm tay”. Jaspers viết. Ðối với Jesus thì cái gì ở
thế gian nầy đều chỉ là tạm bợ. Một nội dung thông điệp cùng ý nghĩa với của
Buđdha (Ðức Phật Thích Ca). Jesus nói: “Thế gian nầy chỉ là một chiếc cầu; bước
qua nó, nhưng đừng xây nhà của ngươi trên nó”. Nhưng không vì thế mà thế gian
không có một giá trị cho chính nó: gia đình, thiên nhiên là tác phẩm của Thượng
Ðế, chúng ta tôn trọng chúng vì chúng ta tôn thờ Thượng Ðế. Thượng Ðế là biện
minh tối hậu, thiết yếu và duy nhất cho mọi giá trị. “Hãy đừng nghĩ ngày mai :
vì ngày mai sẽ chính tự nó lo cho nó”. Chỉ có một nỗi lo sợ duy nhất : được vào
nước Chúa hay là không. Không có lập trường trung hòa. Hoặc là địa ngục hay là
thiên đàng. Và sự thể chọn lựa là mệnh lệnh đạo đức tối cao.
Jaspers viết: “Tin phục Thượng Ðế là tín điều của Jesus, một người dân Do
Thái, như đã là tín lý của dân tộc nầy xưa nay. Nhưng sự tuân phục ngoại tại,
chấp hành theo phép tắc quy định là chưa đủ. Cái chính yếu là sự tòng phục bằng
tất cả trái tim và hiện thân của con người. Jêremiah đã nói, Thượng Ðế đã viết
nên luật của Ngài trong trái tim con người”. Nhưng ý muốn của Thượng Ðế là gì?
.... Khi chúng ta những mệnh lệnh từ Jesus nói lên ý muốn của Thượng Ðế, chúng
ta kinh ngạc với tính cực đoan của chúng: những đòi hỏi không thể được trong
trần gian nầy, “Jesus đòi hỏi" một cách thể hiện hữu, không chỉ là hành vi ngoặc
thể .. những gì không thể chú ý mà là nguồn gốc của tất cả ý lực. “Những mệnh
lệnh sinh hiện mà Jesus rao giảng đều là của truyền thống kinh điển Do Thái
Giáo, mà theo Jaspers thì" Jesus không đem ra cái gì mới cả”. Jesus không đặt để
một hệ thống đạo đức mới mà chỉ thanh lọc tín điều Thánh kinh và nắm lấy nó một
cách nghiêm trọng như là nó được thỏa mãn trong vương quốc của Thượng Ðế.
Jaspers nhận xét, những gì mà Jesus thuyết giảng đều không theo quy pháp của
luận lý, mà chỉ là dấu hiệu hơn là một hệ thống tư tưởng- và khi mà mọi thứ chỉ
là một sự báo hiệu thì không có sự mâu thuẫn trong đó.
Jesus là một nhân thể tạo nên sử tính cho nhân loại vì thế là một con người
ngoại hạng do đó ngoại lệ. Không có ai ảnh hưởng nhiều đến lịch sử Tây phương và
cả thế giới như Jesus. Ông là hiện thân trong truyền thống niềm tin về tiên tri
vốn đã nuôi sống ông cũng như là cho cả nhân loại cả hàng thế kỷ. Với niềm tin,
trong truyền thống nầy, nhân loại được tự do. Tự do đồng nghĩa với một trái tim
thuần khiết trong niềm tin và thuần phục đến khái niệm Thượng Ðế. Dù Jesus đứng
bên lề cuộc đời nhưng chính ông đãđem niềm tin và hy vọng đến cho những kẻ bị xã
hội khinh mạt và xô đuổi. Ông đem sự sống tinh thần cho kẻ yếu, kẻ đau, kẻ khó,
kẻ tật nguyền. Jesus là một người đánh thức nhân loại; những gì ông kêu gào phải
có tác dụng phản tĩnh; ông chỉ con đường sống trong khả tính cao đẹp cho con
người dù thực tế có thất bại và đau thương như thế nào. Và tất cả niềm tin và hy
vọng nầy đều nhằm vào một cõi khác, ngoài thế gian nầy. Ðó là cái tuyệt đối
trong tín điều về một chủ thể toàn năng, toàn thiện và đời đời : Thượng Ðế.
Sau khi Jesus qua đời thì ông đã trở nên một biểu tượng thực tại cho khái
niệm về tuyệt đối thể Thượng Ðế. Ông trở thành Chúa (Christ) -- “ một tác phẩm
dựng nên bởi giáo hội và St Paul. “Từ đó lịch sử Tây phương chuyển động theo mô
thức và biểu tượng nầy.
Và ảnh hưởng của Jesus thì “vô hạn”. Từ St Paul mà Jesus trở nên con người
của lịch sử. Cuộc đời của Jesus là năng động chính yếu cho sự trưởng thành và
phát triển của nó: (1) sự chuyển hóa từ con người Jesus thành biểu tượng Chúa,
con của Thượng Ðế, và (2) con người Jesus được đưa lên là một mô hình cho tôn
giáo nầy. Từ sự chuyển hóa và sáng tạo nầy, một hệ thống tín ngưỡng với đây
huyền thoại và cơ chế, phép tắc, nghi thức và luận thuyết khởi sinh (phục sinh,
giáo hội La Mã, đức mẹ Maria, các thánh đồ, thánh giá.. . ). Gần như là lịch sử
Tây phương từ Jesus bị đóng khung bởi một niềm tin. Thượng Ðế như là một phạm
trù siêu nghiệm đã được chân thật hóa vào thế gian -- và con người Tây Âu trở
nên con chiên vào khái niệm nầy qua một tác phẩm tôn giáo to lớn, bao trùm.
CHUYỆN NGƯỜI ÐÀN BÀ BỊ NÉM ÐÁ
Có một lần Chúa Jesus đang giảng kinh ở một nơi công cộng, đột nhiên có nhiều
người có địa vị trong xã hội, trí thức và tu sĩ chạy đến. Họ kéo theo đàng sau
một phụ nữ mang tội tà dâm. Trong thời kỳ đó, nếu phụ nữ bị bắt về tội tà dâm,
thì nhất định sẽ bị người ta ném đá cho đến chết. Thời đó họ có ba cách để xử
tội, một là ném đá, hai là bỏ vào chuồng sư tử, ba là bị đóng đinh chết. Chúa
Jesus bị đóng đinh, còn người đàn nầy sẽ bị ném đá.
Số người nầy muốn thử thách với Chúa Jesus nên hỏi Ngài : “Theo luật của
Moses thì người phụ nữ nầy bị ném đá chết, Ngài phải xử ra sao?" Chúa Jesus
không nói gì, Ngài dùng tay viết trên mặt cát: “Một đoàn người nói dối!" Số
người đó cứ gạn hỏi Ngài; Chúa Jesus không thể không trả lời, nên Ngài nói:
“Trong số các người đây, có người nào từ trước tới giờ không phạm tội, và cảm
thấy bản thân mình thánh thiện nhất, trong sạch nhất, thì có thể ném một viên đá
đầu tiên. “Khi Ngài nói xong thì mọi người đều im lặng, và từ từ bỏ đi hết. Cuối
cùng chỉ còn lại Chúa Jesus và người đàn bà phạm tội. Lúc đó Chúa Jesus mới hỏi
người đà bà đó: “Những người tố cáo đã bỏ đi hết rồi, không có ai xử cô sao?
“Người đó mới đáp: “Không có ai tố cáo tôi sao Ngài không tố cáo tôi?" Chúa
Jesus đáp: “Tôi cũng không cáo buộc cô, tôi đến đây để cho cô một cơ hội, hãy đi
về! (Chuyện Thánh kinh, BT 88 SM. C. H)
Theo Phổ Nguyệt, cơ hội mà Chúa Jesus đưa ra cho người đàn bà tội lỗi nầy,
nói lên mốc điểm giữa chấm dứt tội lỗi và bắt đầu một cuộc đời mới. Ngay nơi
chấm dứt là sự bắt đầu. Chấm dứt tội lỗi (quá khứ) là mốc điểm (hiện hữu) của
khởi sinh (tương lai) một chuyển thế mới. Mốc điểm là cơ hội. Cơ hội có hai
đường, một là đi đến vương quốc của Thượng Ðế, hai là đi đến địa ngục. Mốc điểm
càng kéo dài thì hạnh phúc càng lâu, vì ở mốc điểm là điểm không có quá khứ
(không có tội lỗi), và không có tương lai (chưa gây tội lỗi).
Tâm hồn trong sáng là con đường hứa hẹn đi đến nước Chúa. Do đó hiện hữu ở
thế gian nầy là tuân phục, niềm tin nơi Chúa, với một ý lực, với đạo đức trong
sáng trọn vẹn thì khi tận thế (hết đời mình ở thế gian ) thì chuyển thế (cuộc
đời sau ) há không phải thiên đường ư! Nếu hôm nay ta không lo (sống) có đạo đức
thì mai sau là con đường đi đến địa ngục. Sự cứu rỗi được thể hiện trong cuộc
đời nầy là niềm tin nơi Thiên Chúa, nơi ý lực hiến dâng và tuân thủ mọi nguyên
tắc tín điều của thánh kinh, trong đó đạo đức đối với gia đình, hôn nhân, xã hội
và giáo hội được hoàn thiện. Một khi tội lỗi (quá khứ) được xưng ra trước đại
diện Chúa là mốc điểm khởi sinh một chuyển thế mới đầy hứa hẹn.
PLATO
Toàn bộ triết học Plato được Jaspers phân thành những thể loại chủ thuyết: về
Ý niệm, Khái niệm về Thượng Ðế và linh hồn, về dự án chánh trị, về vũ trụ. Phạm
vi bài nầy chỉ bàn đến ý niệm và khái niệm về Thượng Ðế mà thôi.
Triết luận Plato được coi như là một tiến trình đi tìm cái lẽ của hiện hữu
bằng sự xây đắp sự thật bằng đối thoại, trao đổi lý luận. Chân lý là sự hiện
thân từ một quá trình chứ không phải là sự thể khách quan có thể tìm ra.
Pla to muốn hướng đến cái gì? Ðó là cái Một -- cái toàn thể, cái gốc cho tất
cả và là nơi để tất cả trở về. Từ đó điểm phát xuất và chủ đích của Plato có một
cái Một bao trùm kêu gọi chúng ta. Chân lý là “sự trở về" đến căn nhà của cái
Một tối hậu. Tất cả đối luận chỉ là nỗ lực để khai phá một lối về đến cái Một
vĩnh cửu nầy.
Ðầu mối cho mọi suy thức Plato là câu hỏi về arete -- là đức, là hảo. Arete
mang ý nghĩa chữ Ðạo của Á Ðông. Ðạo là cái lý bao trùm tất cả, từ vũ trụ đến
con người -- và cái Ðạo chỉ được hoàn tất trong hành động của cá nhân đối với
cuộc đời. Mỗi khuôn mặt của cuộc sống từ chánh trị, giáo dục, văn chương, lao
động đều có cái arete của nó. Arete là tinh hoa tiềm ẩn chờ con người khai phá
ra để hoàn tất nhân cách. Arete không thể truyền dạy ngoại trừ chỉ có thể hướng
dẫn qua thể dạng kiến thức hay kỹ thuật. Nhưng khi arete trở nên tri kiến thì tự
nó là cứu cánh cho năng động sinh hiện: đó là đạt đến trí tuệ. Con người từ đó
được đánh giá bằng trình độ trí tuệ -- mà những con người trí tuệ là nhưng nhân
thể nhận chân và hiện thực được nội chất hiền minh của sự sống. Tuy nhiên Plato
tiếp tục nêu lên những tiền đề cho vấn nạn trí thức: cái đẹp, cái chân, cái trí,
cái thiện cho mục đích nào và trên căn bản nào? Cái thiện đặc thù cho một nhu
cầu nhân thế thực tại? Cái chân tuyệt đối trong bản thể luận? Cái trí tột cùng
của một thánh nhân với “tuệ nhãn"? Ðối với Plato thì cái thiện cái đẹp nằm trong
trí tuệ, có khả năng nhận thức ra tinh hoa arete trong từng bước chân sinh hiện.
Hạnh phúc trần gian là biết cái chân, cái mỹ và cái thiện. Và tri kiến của Plato
cũng phải phân biệt với kiến thức kỹ thuật. Cái khả năng biết đến để phân biệt
được cái tốt cái xấu chính là nền tảng của trí tuệ. Từ đó, triết luận Plato mang
nội dung mệnh lệnh đạo đức. Con người bận tâm đến cái tốt, xấu vì muốn thỏa mãn
đến một thần đế vô hình nào đó. Và động cơ triết học phát xuất từ một mối sợ hãi
mơ hồ và siêu hình.
Tuy nhiên, mối sợ hãi nầy chính là động cơ vượt thoát hiện tại bằng cách đi
tìm ra cái lẽ chân hữu trong cuộc sống qua sức mạnh của tri kiến. Cái biết đầu
tiên là biết rằng mình không biết -- đó chính là biết vậy. Những tư tưởng nầy
mang âm điệu của người Trung Hoa. Bước kế tiếp là biết về thế gian và vũ trụ.
Sau đó là biến đến cái Tâm trong năng thức hướng về cái Một. Khi đạt đến giai
đoạn nầy thì con người bắt đầu bứớc vào lãnh vực kiến thức khoa học, kỹ thuật và
tri thức học. Chân lý là sự vượt qua chính giới hạn tri kiến đang là để nhận ra
một biên độ mới trong nhận thức đến sự hữu hạn của con người trước tất cả. Như
vậy thì giá trị “cá nhân là cái Tâm hướng đến -- năng lực trở nên thường trực
nhằm cải thiện và hoàn chỉnh chính mình. Mệnh lệnh cho sinh hiện là sống trong
hiểu biết -- vì tất cả những gì mà cá nhân có thể đạt đến phải đặt nền tảng trên
cái biết có thực chất.
TƯ TƯỞNG PLATO, tất cả đều nhắm về cái Một. Và arete là cái Một,
chứ không phải cái nhiều. Cái Một chỉ là cái căn tính để khai sáng tất cả những
ý niệm, là nền tảng cho tất cả mọi cứu cánh của suy tưởng có thể dựa vào như là
điểm tựa cuối cùng. Từ đó, cái Một là nguyên lý hướng đạo mà cá nhân suy thức
đến, hắn sẽ tìm ra ý nghĩa chân thật cho sự sống. Chúng ta không thể hiểu thấu
cái Một nầy vì nó chỉ là con đường đi tới.
Nguyên lý của cái Một đồng nhứt với mức độ tự ý thức. Trong năng động suy
tưởng về sự suy tưởng chúng ta có được kiến thức về cái khác đồng lúc với ý thức
tự nó. Do đó, cá nhân nào muốn có sự hòa thuận với kẻ khác trước hết phải hòa
thuận với chính mình. Hãy coi chính mình như người bạn nhứt trí để có thể đón
tiếp tha nhân như là bằng hữu. Con người có phẩm chất quan yếu nhất khi hắn
chính là hắn trong sự nhất trí nầy. Nhưng sự nhất trí nầy phải được đặt nền tảng
trên cái thiện.
Cái quan trọng của suy tưởng không phải là sự thâu nhập kiến thức về cái khác
-- mà là năng động suy thức. Trong suy thức và phản tưởng, cá nhân được chuyển
hóa. Mỗi chúng ta mang một sứ mạng: chuyển hóa để vượt qua chính mình Ðang Là
qua kiến thức và hiểu biết về chính mình. Và đây là tiền đề triết học căn bản
cho triết học Tây phương mà Plato khởi đầu và kéo dài cho đến Kant.
Ðối với Plato thì có hai tiền đề triết học quan trọng về tri kiến :
Vô minh là tội lỗi:
“Nếu vô minh chỉ là chuyện đùa chơi, nó chỉ là sự yếu đuối và chỉ là tội nhỏ;
nhưng khi vô minh đi kèm với sự giả dối nhân danh kiến thức cộng thêm với quyền
lực để mà phát động nó thì vô minh nầy là tội ác -- Kiến thức là tri kiến trong
vô tri kiến với sự điều hướng của cái thiện. Kiến thức hữu hạn là phương tiện
cần thiết để có thể tìm đến chân lý nhưng chúng phải được đặt trên nền tảng trí
tuệ vững chắc”.
Không ai có thể tự ý
sai lầm: “Chúng ta cho rằng con người bị chủ động bởi tham, sân, giận, và rằng
chúng ta làm một điều gì đó dù rằng chúng ta biết rằng điều đó có hại, hay là
chúng ta muốn những gì thực ra chúng ta không muốn. Nhưng đối với Plato thì tất
cả những điều đó là không thể được.
Theo Plato thì sự bất
đồng giữa đau đớn và khoái lạc liên hệ đến sư phán đoán trên căn bản lý trí là
cái vô minh tệ nhất; nhưng điều đó cũng là lớn lao hơn cả vì nó ảnh đến phần
đông linh hồn nhân loại. Cho đến tác phẩm cuối cùng, Luật pháp, Plato cũng nhắc
lại câu nói tự khởi đầu, “Không có ai có thể tự ý làm điều gì sai lầm.”
Và đó là tiền đề triết học cho mối liên hệ giữa ý chí và kiến thức. “Ý chí
chân thật là ý chí có hiểu biết”. Tham dục khi trở thành động cơ tác hành, trở
nên là năng lực vô minh chứ không phải là ý chí. Cá nhân có thể ý lực khi hắn
tác hành cái tốt, cái thiện. Cái thiện và cái hiểu biết chính là một -- và đó
chính là nền tảng căn bản của ý lực chân chính. Bởi vậy, mà không có ai có thể
tự ý làm điều gì sai lầm vì khi hắn làm như thế, ý chí của hắn bị đánh mất và bị
kiểm soát của vô minh và dục vọng.
Tuy nhiên, Plato chỉ nói đến sự hiểu biết trên căn bản trí tuệ. Còn tất cả
những tri kiến giới hạn vẫn chỉ nằm trong vũng tối của vô minh.
LÝ THUYẾT VỀ Ý NIỆM. Về cái Thiện: Khoa học cao nhất, theo Plato,
là sự khai sáng về cái thiện. Cái thiện nằm trong ý thức cũng như là mặt trời
soi sáng thế giới vật thể. Nó là nguồn cội của sự sáng cho tất cả. Chúng ta
không thể thấy được mặt trời mà chỉ có thể thấy tất cả qua ánh sáng của nó.
Plato, cũng như Buđha, cho rằng viễn kiến trong trí tuệ thì cũng như ánh sáng
mặt trời chứ không phải là mặt trời. Chúng ta không thể nắm được cái thiện như
là một cứu cánh chắc mãn mà có thể thực hiện được tinh hoa cái thiện trong trí
tuệ.
Về hai thế giới Ý niệm: Cái cao nhất, cái tinh hoa, cái nguyên lý, dĩ nhiên
không phải là cái thiện. Cái mà Plato nói đến là một cõi Chân Hữu, cái không
biến đổi, cái vĩnh cửu, cái vô thủy vô chung -- cái vượt qua tất cả nhưng nằm
trong tất cả để cho tất cả những gì hữu hạn vô thường được chính là chúng và làm
cho chúng có ý nghĩa. Cái nầy có thể tạm gọi là Ideas. Ideas nầy trở nên hai thế
giới: thế giới của hữu thể va thế giới của Trở nên. Nhưng có một cõi thứ ba:
không gian. Không gian là như thế, không thể hũy tan, nhưng nó chứa đựng tất cả
hữu thể -- tự tính không gian là vô hữu, nhưng từ mở rộng của vô thể nầy mà
không gian dung chứa cho những gì có thể trở nên sự hữu.
Cõi Ý niệm là cõi siêu việt, cõi của tột trí vốn có thể nhận thức được bằng
tri kiến. Từ cõi đó mà tinh hoa của sinh hữu phát xuất và tồn tại. Plato diễn tả
cõi Ý niệm:
“Nơi tất cả -- của vô sắc, vô thể, tinh tuý vô cùng, là tinh yếu của tri
thức, là chính đạo của linh hồn. Ðó là nguồn cội của công lý, của hài hòa, của
trí tuệ hài hòa, của trí tuệ tuyệt vời, không ở trên phạm trù của liên hệ hay
sinh tác của sinh hiện như những gì mà con người biết đến, mà là một thứ sinh
hữu tuyệt đối”.
TỶ DỤ VỀ HANG ÐÁ:
Có lẽ câu chuyện ẩn dụ về hang đá Plato là nổi tiếng nhất -- được trình bày
trong cuốn Nền Cộng Hòa. Ðây là sự so sánh về trình độ và hoàn cảnh tri kiến và
tâm thức của con người đối với chân tính của sự Hữu. Nhân loại sinh hiện như là
những cá thể bị xiềng xích trong một hang đá tối tăm. Chúng ta chỉ nhìn thấy một
hướng trong ánh sáng mập mờ từ ngọn lửa thấp thoáng. Cái gì thấy được chỉ là
những chiếc bóng đổ lên tường đá ẩn hiện -- mà con người cứ cho rằng chính là
chân lý. Khi được cởi bỏ xiềng xích, cá nhân đứng dậy, vươn vai, nhìn quanh, và
kinh nghiêm đầu tiên là cổ bị đau vì lần đầu tiên hắn biết nhìn theo hướng khác.
Hắn nhìn tới đốm lửa sáng nhưng mắt bị chói nhức -- và hắn chỉ muốn nhìn theo
thói quen và chỉ muốn cho rằng các chiếc bóng ẩn hiện trên tường là thật theo
thói quen. Khi hắn bị kéo ra khỏi hang đá, đối diện với ánh sáng mặt trời lần
đầu, hắn không nhận ra gì cả. Và hắn nhận ra sự vật một cách chậm rải. Cho đến
khi hắn nhận ra thực chất của vấn đề và hoàn cảnh của hắn và đám người còn ở
trong bóng tối hang đá, hắn muốn trở lại hang để cứu họ. Nhưng đám người kia
phản đối hắn và đe dọa hắn nếu hắn can thiệp vào “sự thật" được diễn đạt theo
bóng đen trên bờ tường kia.
Ðây có thể là một trong những tỷ dụ triết luận quen thuộc nhất -- cũng như là
những câu chuyện “những thằng mù sờ voi" của Buđha. Tỷ dụ hang đá nầy biểu trưng
cho ba tiền đề triết học căn bản của Plato. : Sự ngoái nhìn hay chuyển hướng tư
tưởng, giai trình của tri kiến, và sự chuyển hướng hai chiều của nhân loại. Cá
nhân phải có quyết định chuyển hướng tri thức như lần đầu tiên được cởi trói
phải nhìn lại đàng sau lưng mình để có thể thấy được đống lửa trong hang đá dù
cho đầu cổ có bị đau, mắt có bị chói lòa. Khi đã có ý chí vượt thóat trên căn
bản tri thức thì hắn sẽ phải đi qua từng giai trình tiến hóa cho trí tuệ, từ
giác quan đến tư tưởng và sau đó là Ý niệm, như là từ kiến thức tóan học đến
khoa học biện chứng, từ Ý niệm đến cõi siêu việt cao hơn. Hay nói một cách khác,
từ dục thức đến chánh kiến. Những tiền đề căn bản nầy của Plato cũng tương tự
như của Buđha : quy y tức là chuyển hướng tri thức, bát chánh đạo cũng như là
giai trình tiến hóa trí tuệ. Khi cá nhân ra khỏi hang đá, nhận thức được vấn đề,
hắn phải trở lại để giải thóat như là một mệnh lệnh đạo lý mà Phật giáo đại thừa
cũng có đề cập đến qua khẩu hiệu “Tự giác giác tha”
Tuy nhiên, triết học Plato nhấn mạnh đến tính quan yếu của sự chuyển hướng
hai chiều cho sinh mệnh cuộc đời: sự vươn lên đến cõi Ý niệm để tìm đến
Chân,Thiện, Mỹ để rồi trở lại với sự sống thường nghiệm nhằm cải hóa cuộc đời.
Plato không chủ trương từ bỏ cuộc đời, không nhằm đến một sinh hiện cô độc và
khổ hạnh. Cuộc đời chính là cõi thực nhất cho cá nhân khi tất cả những tinh hoa
của Ý niệm đã được nhận thức.
LÝ THUYẾT VỀ EROS (TÂM):
Theo Jaspers thì Plato khai mở ba phương diện tinh yếu của triết luận: a) Suy
tưởng như là một con đường nghĩ đến cái không thể nghĩ bàn; b) khả thể truyền
đạt chính là điều kiện cho chân lý; và; c) phép biện chứng trong tư tưởng nhằm
kiến tạo và giải hóa khái niệm và định kiến hữu hạn. Tất cả đều nhắm về mục tiêu
vĩnh cửu: cái Một.
Năng động và tiến trình chuyển hóa về cái Một là bản chất tự do -- của chính
ta và tha nhân. Ðây là tự do được kiến thành bởi tình yêu. Kiến thức triết học
là kiến thức trong tình yêu. Triết học không phải là trí tuệ mà là tình yêu về
trí tuệ -- một sự chuyển động của tình yêu. Sở dĩ triết học khởi đi từ tình yêu,
vì theo Jaspers, Plato làm triết bởi tình yêu của ông dành cho người thầy
Socrates. Ðó là một Eros chân hữu, lớn lao và thực tế. Tình yêu của Plato là một
huyền thoại, một vực sâu thẳm, cái gì nâng con người về cái Một tuyệt đối.
Trong tình yêu, tính dục cũng là điểm khởi đi, vừa là biểu tượng vừa là kẻ
thù. Cái đẹp vĩnh cửu trong tình yêu phát xuất từ ấn tượng giác thức. Nhưng khi
tính dục trở nên tự mãn, không còn gì để hướng về thì tính dục là tội lỗi, là nô
lệ, là bóng tối. Không có giác quan thì tính dục không có khởi động và trí thức
chỉ là trống rỗng. Triết học cũng là đồng tính với tính dục: cả hai phát xuất từ
sự chuyển động của Eros -- năng lực sáng tạo và chuyển hóa. Triết học nâng trí
thức về với cái Một bằng ngọn lửa nhiệt tình -- và ở trong đó, sinh nghiệm được
kiến tạo -- một cõi sống ở giữa của trở- nên trong cái Ðang - Là hữu hạn. Chỉ có
những Thần Ðế (God) thì không có yêu, không triết luận- vì chúng hiểu biết.
Plato sống một cuộc đời cho tình yêu triết học -- tức là tình yêu dành cho
Socrates. Socrates khởi đi và Socrates là chung điểm của Plato. Ông khai mở tiền
đề, vấn nạn, phạm trù -- những lãnh thổ suy tư cho truyền thống Hy Lạp và Tây
Âu. Từ Plato là một trung điểm khởi đi mọi hướng. Không có triết học nào, phân
nhánh tư tưởng nào mà Tây Phương và thế giới hiện đại không nhắm về Plato với
những gì ông ta đã đề cập đến.
AUGUSTINE
Nền Tảng Và Hướng Ði Của Tư Tưởng Augustine:
1)- Sự Chuyển Hồi : Theo Jaspers thì nền tảng suy thức của Auggustine phát
xuất từ sự cải đạo -- hay là sự chuyển hồi -- từ đời sống vật chất, thế tục về
với niềm tin Thượng Ðế trong hệ thống tín lý Thiên Chúa giáo. Ở tuổi 19, ông bắt
đầu say mê triết học, một nỗ lực suy thức về một tri kiến để có thể đưa dẫn
chính mình về bề mặt đến tinh hoa của sự vật. Từ triết luận của Plotinus,
Augustine bắt đầu chuyễn hướng quan trọng cho cả cuộc đời: hành trình khai sáng
một thực tính tinh thần để cởi bỏ gánh nặng của đờI sống nhục thân. Qua những
nhận thức khởi đi nầy, dù là quan trọng, Augustine vẫn không thỏa mãn với hiện
sinh. Cho đến khi ông cải đạo chính thức trở nên một tín đồ Thiên Chúa giáo, thì
lúc đó cuộc đờI ông mới bắt đầu một biến cố khai ngộ quyết định -- khởi lên từ
môt quá trình lâu dài và nhiều do dự với một căn cơ vốn đã được dọn sẵn từ lúc
ấu thơ.
Sau khi chính thức là một tín đồ, Augustine về sống với bạn hữu để thảo luận
học hỏi triết học cổ điển. Ông bắt đầu trước tác những tác phẩm chứa đựng nhiều
tinh túy của triết học cổ đại trong năng lực tái sinh với một tài năng mới.
Ðối với Augustine thì nguồn năng lực triết học mới phải phát xuất từ Thiên
Chúa giáo -- nhưng trên căn bản lý tính: niềm tin từ Thượng Ðế. Nhưng sự chuyển
hóa nầy là gì? Nó có phải là sự thức tĩnh về với triết học, như Augustine đã --
qua Cicero và Plotinus? Thưa không. Sự chuyển hóa nầy là một chấn động và thay
đổi toàn thể hiện hữu của cá nhân về trong chủ hướng Thượng Ðế. Sự trao thân và
thức mệnh tuyệt đối và tối hậu cho niềm tin vào Thượng Ðế, trong tín lý Thiên
Chúa giáo, qua Thánh kinh và Giáo hội, là giải pháp toàn diện -- mà Augustine đã
được cứu rỗi sau khi ông đã thất bại phương pháp tu khổ hạnh để diệt dục.
2)- Sự Chuyển Hóa: Ðây là năng động triết học quan trọng của Augustine. KhởI
đi từ những ý niệm triết học độc lập để trở thành những yếu tố tư duy trên căn
bản đức tin vào tiết lậu, Jaspers phiên giải. Theo đó, ngọn lửa nhiệt thành của
triết học trở thành nhiệt độ của niềm tin. Cả hai có vẻ như là một, nhưng chúng
được phân biệt bởi một bước nhảy vọt: sự chuyển hồi. Tinh hoa của suy tưởng đã
được đổi thay. Ðức tin mới được ưu thắng bởi một tri kiến bất tận trên nền tảng
niềm tin. Khái niệm Thượng Ðế, Chúa, Văn kiện Thánh kinh, cơ đồ giáo hội v. v..
. chẳng qua là hiện thân của một tín điều về những tiền đề cho sự Hữu. Tiền đề
triết học trở thành tín điều của Giáo hội.
Thượng Ðế (God) là chủ đích, là trung tâm của tư tưởng Augustine. Nhưng triết
học của ông muốn nói về một Thượng Ðế mới. Vào thời điểm nầy, thần học bị ngự
trị bởi những khái niệm về God và một anti- God trong một cơ cấu huyền thoại của
truyền thống nhị nguyên luận của Manichaen (Ba Tư) -- những thế kỷ đầu của Tây
lịch. Cộng vào đó là truyền thống triết học Hậu- Plato vẫn còn nuôi dưỡng khái
niệm của cái Một nhất nguyên. Cả hai tiền đề về Thượng đế nầy đều không thỏa mãn
Augustine. Thượng Ðế của Manichaen thì là của đối nghịch, chiến tranh, đầy huyền
hoặc. Cái Một của Plato thì quá trừu tượng, viễn vông. Từ đó, Augustine đi tìm
Thượng Ðế trong Bible qua ngôn ngữ Thánh kinh, và hiện thực hóa qua cơ chế Giáo
hội. Với một Thượng Ðế mới, khái niệm về chủ thể tuyệt đối mơ hồ nầy đã trở nên
hiện thực qua niềm tin. Tư duy vẫn là một con lộ đến Thượng Ðế nhưng niềm tin đã
đặt để nền móng vững chắc cho con lộ tri thức nầy. Triết học Augustine được dìu
dắt bởi thẩm quyền từ Bible từ Giáo hội chứ không bằng nguyên tắc triết học.
Bản chất nổi bật kế tiếp của triết học Augustine là nội dung triết học
Plotinus. Những gì Plotinus nói về Thượng Ðế đều được Augustine tái phân giải.
God là thực tính và là cội nguồn của tất cả sinh hữu : là logos, ánh sáng tri
thức, là tính thiện tự hữu cho tất cả mọi vật. Tất cả mọi lãnh vực triết học, về
vật lý, về đạo đức, về logic đều phát nguồn từ God.
Tuy nhiên -- Jaspers phân luận tiếp -- triết học Plotinus, vớI những khái
niệm về Thượng Ðế vẫn còn là những phạm trù trừu tượng, khi qua lý thuyết của
Augustine thì trở nên thực tại bằng phân định. Cái cấu trúc tam thể của Plotinus
về cái Một siêu thoát, cái tinh thần trong sự hữu, cái hồn của thế giới như là
thực tại : The trinity của tam vị nhất thể với Cha (God), Con (Jesus), và Thánh
Linh (Holy Spirit). Ðối với Plotinus thì cái Một là vĩnh cửu -- là nơi phát xuất
tinh thần, linh hồn thế gian và vật thể qua những chu kỳ bất tận; khi qua
Augustine thì cái Một Thượng Ðế trở nên một Thần Ðế có quyền năng, sáng thành ra
thế gian vớI Một đầu tiên và điểm cuối cùng. Cái Một của Plotinus là trung hòa;
còn Thần Ðế của Augustinelà cho chủ đích con người. Vì thế, Plotinus không cầu
nguyện; còn Augustine thì cầu nguyện là quan trọng hàng đầu. Plotinus tìm niềm
hứng khởi trong suy niệm siêu bổng; Augustine thì tự kiểm thảo chính mình nhằm
minh định năng động của đức tin. Plotinus tìm ra bằng hữu với những triết gia
rải rác khắp mọI nơi; Augustine thì tìm ra chính mình qua thẩm quyền của Giáo
hội với bản chất thế quyền bằng một cơ cấu tổ chức thực tế.
3)- Sự phát triển của Tư Tưởng Augustine: Jaspers nhận xét: Sự chuyển động tư
tưởng của Augustine là một tiến trình tổng thể của ba phương diện: Christian,
Catholic và Giáo hội. Từ đó, Augustine vật vả với tư tưởng trên ba phương diện
đó như là như là lịch sử vật vả của Giáo hội La Mã đối với thế gian. Những gì
rất là thực tế của đời sống tinh thần trong Giáo hội chính là tâm điểm của tư
tưởng ông. Những tiền đề về thiên sủng, về tội lỗi, về cứu rỗi đều phát khởi và
minh giải trong những luận đề biện minh cho Giáo hội. Bản tính Catholicity của
Giáo hội như là một hiện thân huyền bí từ Chúa Jesus được đề ra và luận giải từ
những bài biện hộ đối các phe phái khác cùng thời. Từ một triết gia trẻ vớI tất
cả những gì trong sáng với tiêu chuẩn nền tảng của lý trí, Augustine bỏ mất giá
trị độc lập của triết học để tìm về tư tưởng thần luận trên căn bản Thánh kinh
-- cái mà ông cho là quan trọng nhất.
Những Phương Diện Tư Tưởng Và Con Người Của Augustine :
1) Minh giải về sinh hiện và phiên luận kinh Thánh : Jaspers phân chia tư
tưởng
Augustine ra thành nhiều phương cách:
Thứ nhất : Về phạm vi siêu hình của kinh nghiệm nội tại: Augustine viết rằng,
con người thế gian sao cứ say mê tìm hiểu, khai phá, thám hiểm những gì bên
ngoài, như sông, núi, ngân hà, vũ trụ, nhưng lại không chịu khám phá và tìm hiểu
chính mình và Thượng Ðế. Khẩu hiệu cho chính mình của Augustine là Hãy cho tôi
biết tôi, Hãy cho tôi biết Người. Mệnh lệnh của ông là mệnh lệnh nội tâm, nhìn
vào bên trong. Jaspers viết, Sự khai phá của Augustine đối với linh hồn là sự
khai phá Thượng Ðế; ông nghiên cứu Thượng Ðế chính là nghiên cứu tâm hồn. Ông
thấy Thượng Ðế trong chiều sâu tâm hồn, và thấy tâm hồn trong liên hệ đến Thượng
Ðế. Trong chiều hướng nghiên cứu đời sống tâm hồn nầy mà Augustine được gọi là
nhà tâm lý học hiện đại đầu tiên -- không phải trên căn bản thực nghiệm khách
quan mà là trên năng ý giảo cứu nội tại. Ông đối diện với đáy sâu bất tận của
tâm hồn và than lên, Con người là một vực sâu thăm thẳm, to lớn, và chính Ta trở
nên một câu hỏi cho chính ta.
Từ triết luận của Augustine là một chuỗi dài những nghi vấn, những cách thế
đặt câu hỏi, những phạm trù vấn nạn về trí nhớ, kinh nghiệm, về sự chắc chắn về
chính mình. Augustine đã nói, Cho dù ta đang nghi ngờ, ta biết là ta đang nghi
ngờ và chắc chắn điều đó. Ta biết chắc khi ta nghi ngờ. Từ đó hạt giống tri
nghiệm được nêu lên : Ta hiện hữu khi ta nghi ngờ. Chúng ta chỉ có thể nghi ngờ
nếu chúng ta Ðang Là. Không như Descartes chỉ chắc chắn về cái Ta Ðang Là,
Augustine chắc mãn về một bản sắc cho cái Ta nầy: cái Ta nầy biết về chính mình,
biết đến đúng và sai, mang ý lực về hạnh phúc, yêu thương cuộc đời và khao khát
kiến thức. Chúng ta sinh hữu, chúng ta biết về sự hiện hữu của chúng ta, và
chúng ta yêu mến hiện hữu nầy và kiến thức nầy. Nhưng tình yêu và ý lực nầy để
làm gì? Augustine trả lời: tình yêu cho hiện hữu và kiến thức. Ðây là sự chắc
chắn, không phải chắc mãn rỗng không, mà sự chắc mãn đựơc chất đầy bởi tình yêu
và ý nguyện. Ðến đây thì Jaspers kiểm thảo, Nhưng sự chắc chắn nầy của Augustine
có thể bị sụp đổ xuống thành một tiền đề trống không, vô nghĩa về sự hữu, hay là
tình yêu chỉ là một khát vọng cho bất cứ cái gì của sự sống; hay là chân lý chỉ
còn là những cái vô nội dung chỉ nói lên được một điều có vẻ chính xác. Vấn nạn:
Nội dung của tính sung mãn nầy là gì? Là Thượng Ðế -- Augustine trả lời. Tất cả
cuộc sống tình yêu, ý chí sự hữu đều đặt căn tính vào Thượng Ðế. Nếu chúng ta
hỏi tiếp rằng, nếu Thượng Ðế chỉ là chỉ là một khái niệm vô nghĩa và rỗng tuếch
thì căn tính có ý nghĩa gì không? Ðối với Augustine thì God là chân đứng tối
hậu, một giả định căn bản và tiên thiên -- nếu không chấp nhận gỉả định về God
thì tất cả cấu trúc của Augustine chỉ còn là một bài thơ dài đầy mê tín và dị
đoan.
Về vấn nạn của Thời: Thời đối với Augustine là một huyền bí, một cái gì có vẻ
như biết mà không nắm chắc được. Ông quan tâm đến vấn đề nầy thường xuyên và
người dầu tiên đạt lên những nghi vấn, những tiền đề sâu sắc về triết học cho
Thời. Ông cho rằng Thời là một sự khai rộng -- và đầu óc con người tự chính nó
là sự khai dài của Thời. Và câu than của ông đã trở thành kinh điển, Vậy thì
Thời là chi? Nếu không ai hỏi tôi, tôi biết; nhưng nếu có ai hỏi đến và tôi phải
giải thích cho họ, tôi không biết. Tôi chỉ suy hỏi đến mà thôi chứ không nói lên
điều nào cả. Và Thời bắt đầu chỉ khi Thượng Ðế sáng tạo ra vũ trụ và sự hữu. God
không tùy thuộc vào Thời. Trước khi tạo thế thì không có Thời. Thời chỉ phát
xuất từ sáng thế. Không có cái trước đó. God là một thể trạng ever- present
eternity. Vấn nạn về Thời vẫn là như vậy vì càng hỏi đến, càng suy cứu nó lại
càng trở nên khó hiểu. Chỉ có một điều được khai mở khi vấn nạn về Thời đựơc
mang lên: sự chắc mãn về sự hữu của chính ta và về Thượng Ðế.
Nhưng Thượng Ðế được dựng lên từ đâu? Từ thẩm quyền của Thánh kinh Bible và
sự phiên giải của nó. Nền tảng của Bible là sự tiết lậu -- chữ viết văn ngữ có
được là của Thượng Ðế khai thị. Lý trí con ngườI dừng lại ở một sự chấp nhận đối
với thẩm quyền nầy -- mà Augustine gọi là đức tin. Ðức tin là điểm cuối cho mọI
nghi vấn. Nó là câu trả lờI tối hậu. Lý trí phải được đặt nền tảng trên đức tin
-- và triết học là chỉ để khai sáng cho một biện minh về niềm tin nầy mà thôi.
Và làm sao tìm ra tính thực tại cho thế gian nầy và tất cả vấn đề bình nhật của
con ngườI và của lịch sử? Augustine đã dọn sẵn một câu trả lời khác: Giáo hội (
La Mã ). Giáo hội là thẩm quyền, thay mặt Chúa hành xử chuyện thế gian thực tế.
Giáo hội và con chiên đến với Chúa qua đức tin trên căn bản ngữ từ của Bible.
2)- Về Thượng Ðế và Chúa: Augustine phát huy tư tưởng của ông thành hai ngả:
Về God thì trở nên một đối thể huyền hoặc và cao siêu; Về Christ thì trở thành
chân thực và lộ diện qua sử tính và nhân thế. God là sự ra đi; Christ là bước
chân trở về căn nhà nhân loại. God là vượt thoát; Christ là vấn thân vào khổ đau
với con người và tội lỗi.
Cái sâu sắc, tuyệt vời của lịch sử Thiên Chúa giáo Tây phương là sản phẩm
Chúa (Christ). Từ St Paul mà cuộc đờI của Jesus trở nên một ý niệm vĩ đại. Những
hình ảnh cụ thể của Chúa Jesus trên Thánh giá thì điều nầy trở nên thực tại :
tội ác cực kỳ của con người; khái niệm về đau khổ tột cùng trong văn hóa Do
Thái; tiếng than của Thần Ðế trong thất bại; sự đau đớn tột cùng cho một nhân
thể; biên độ hữu hạn của khả năng của con người và bản chất vô hạn của tính tự
hào của Ngài.
Tại sao các đồ đệ của Jesus biến Jesus một con người hữu hạn, thành môt Jesus
của ý niệm Chúa? Trả lời : Hình ảnh và huyền thoại của Chúa Jesus giải quyết một
đòi hỏi cho con người: chúng ta muốn một hiện hữu thân xác. Qua thân xác và cuộc
đời hữu hạn của Jesus, Thượng Ðế trở nên chân thực va ngôn từ trở thành xác
thịt.
3)- Về Tự Do:Ðối với Augustine, Jaspers viết, ý lực là trung tâm của sinh
hữu, là chính cuộc đời. Tuy nhiên, từ trong tự do, kinh nghiệm căn bản vẫn là sự
dằng co giữa thực tính tự do và khả năng ý chí : tôi năng ý nhưng tôi không thể
chú ý cái ý lực của mình. Tôi muốn đi tìm cái gốc nguồn ý lực -- vốn nằm ngoài
tôi. Vậy thì ý lực, vốn là của tôi, mà không đến từ tôi. Tôi không thể làm cho
tôi yêu ai nếu tôi không yêu người đó. Tôi là tôi nhưng tôi có thể làm cho tôi
sai lầm. Chính taphản bội ta là điều thường nghiệm. Cái ta nầy được giao cho tôi
-- tôi tin nó nhưng không cậy nó được. Khitôi sinh sản ra cái Ta qua tác hành
hay ý chí.
Luận đề nầy là một vấn nạn quen thuộc trong truyền thống Ấn Ðộ. Nhưng Ấn Ðộ
có câu trả lời : cái Ta nầy được trao cho ý thức về ta từ nghiệp quả vốn cấu
thành từ muôn vạn kiếp trước. Từ đó, sinh mệnh là một mệnh lệnh tu tĩnh để giải
thoát cái Ta nầy ra khỏi ý thức về ta để đạt được một thực tính tự do không là
Ta. Cả Thiên Chúa giáo lẫn Ấn giáo và Phật giáo ký thác căn tính tự do vào một
cái ngoài Ta -- tính ngoại thân là nguồn cội của ý chí và tự do. Ðó là Thượng
Ðế, hay là nghiệp quả, hay là gì đó. Cái Ta chỉ là một hiện thân từ một cái
không phải là Ta.
Theo Jaspers, thì Augustine tìm ra một phân định cho tự do khác để bỏ mất cái
đẹp, cái độc lập, cái bi thảm vốn phát huy mạnh từ văn minh Hy Lạp.
Chưa có triết gia nào trước Augustine quan tâm đến vấn nạn bất thường của tự
do, căn tính khả thể tự nó, hay là nghi vấn về ý nghĩa thực hữu cho tự do.
Jaspers nhận xét. Từ Plotinus và St Paul mà Augustine tìm cho mình một cõi tự do
mới : từ Chúa Jesus như là một Thượng Ðế qua thân xác, của Giáo hội như là cơ đồ
thế gian của Chúa. Cái Ta nầy là một nhân cách không bị đánh mất vào cái Một mơ
hồ -- mà là một năng động thực hữu. Tự do, vì thế, là cho Ta trong hướng đi của
Giáo hộI, của đức tin cho Chúa cùng vớI suy niệm về Thượng Ðế. Tự do, cuối cùng,
chỉ là một phạm trù ý thức về cái Ta hiện thực hóa sự chắc mãn trong tín lý và
khai phá nội tâm để biết cái nào là cái Ta và cái nào là cái không Ta.
4)- Và trong năng động tâm thức cá nhân, cái quan trọng nhất là tình yêu. Yêu
là khao khát cái gì chưa phải là. Nó là năng lực ý chí.. Nó là khao khát khi
muốn chiếm hữu; hạnh phúc khi đã có; lo sợ khi chiếm hữu bị đe dọa; thảm sầu khi
bị mất. Tất cả những gì con ngườI tác hành, ngay cả tộI ác, cũng chỉ vì tình
yêu. Nhưng con ngườI không thể diệt được tình yêu. Chỉ có cách là thanh lọc và
điều hướng năng lực ý chí nầy. Tình yêu chân thực là tình yêu cho Thượng Ðế.
Nhưng yêu God là sao, là gì? Là cái miên viễn, thường trụ, cái thiện. Có thực
vậy không? God là một khái niệm trở nên đối thể của ý thức nay trở thành người
yêu chân hữu? Yêu Thượng Ðế là tung đôi ý chí và tự- ngã vào khoảng không? Ðể
đạt được những phạm trù phủ định: bất tử, không mất mát, không hủy diệt. Có phải
đây là một trạng thái tâm lý gượng gạo của một tín đồ cực đoan sống trong một
truyền thống tín điều?
Augustine, qua Jaspers, cho rằng tinh hoa của cá nhân là tình yêu. Cái biết
về thiện chưa đủ, hắn phải yêu cái thiện. Nhưng cái thiện ở đâu? Có phải là ở
nơi từng hoàn cảnh thực tại giữa thế gian nầy. Nếu chỉ có caritas (yêu God ) mà
không yêu thế gian thì chữ thiện nằm trong khoảng không? Augustine chủ trương
tình yêu cho Thượng Ðế như là hướng đi cho mệnh lệnh -- vì yêu thế gian là yêu
cái vô thường, nó chỉ là libido, là tình yêu xác thịt.
Cái to tát, vĩ đại của tư tưởng Augustine là khả năng đánh thức chúng ta về
những vấn đề lớn cho hiện hữu : của Thượng Ðế, của linh hồn, của tuyệt vọng, dằn
vặt, tội lỗi, chiêm nghiệm, cô đơn. Từ tín lý tuyệt đối với Giáo hội và Bible
qua khái niệm Thượng Ðế, Augustine làm cho chúng ta phải giật mình và nghĩ về
một phương hướng sinh hữu khác bao gồm những thứ trên. Từ trong nô lệ của tư
duy, chúng ta ý thức được ánh sáng tự do trước mặt.
Jaspers viết, Augustine là biểu tượng của Thiên Chúa giáo, qua phái Catholic:
Của một phong khí khiêm tốn một cách tự mãn, của tính khắc kỷ nặng tính giác
quan, của sự che chụp và xoay ngược liên tục (của đời sống tâm lý) -- chạy suốt
cả dòng sinh hữu của tôn giáo nầy hơn tất cả các tôn giáo khác.
-ooOoo-
|