THỰC TẠI & CHÍ ÐẠO
Tác Giả: Phổ Nguyệt
Xuất Bản Năm 2002
|
PHẦN II
GIẢI THOÁT TRI KIẾN
Nhờ có lý trí (Tàng thức) mà con người hiểu biết
được vạn vật và ngay cả tâm trí của mình. Khai ngộ là giải thoát lý trí ra khỏi
kho chứa ràng buộc nó. Tri kiến là cái giả lập của sự hiểu biết. Cái Biết mới là
thực, cái Bị Biết (Tri kiến) là không thực, là cái giả lập của cái thực.
Kant định nghĩa Khai Sáng như là một hành động lột xác: sự thoát ly ra khỏi
điều kiện vị thành niên mà con người đã tự giam mình vào, để làm người trưởng
thành -- Ở Kant, vị thành niên là kẻ không có khả năng tự vận dụng lấy lý trí mà
không có sự lãnh đạo của người khác.
Cứ dám biết! Hãy có can đảm tự sử dụng trí tuệ của chính mình. Ðó là phương
châm của khai sáng.
Ở đây cái mới của Khai Sáng là : 1) báo hiệu một kỷ nguyên tiến bộ vừa không
thể đảo ngược, vừa có tiềm năng vô hạn; 2) lấy sự tiến tới của tri thức, và qua
đó, của đời sống vật chất, làm cơ sở cho sự tiến lên của đạo lý và xã hội --
nghĩa là sự tiến bộ tinh thần của nhân loại.
(TC Triết 2, tr. 12)
Giải thoát tri kiến có nghĩa là khôi phục lại cái thực tính của tri kiến, tức
là sự hiểu biết chân thật hay là chân lý tối hậu.
Vượt thoát khỏi đối tượng tìm đến tự tính của nó là đường về chân nguyên. Lột
xác tri kiến giả lập để thể hiện tri thức thực sự tức là Tri thức đúng hay Hiểu
biết chân thật. Vậy tri kiến như phương tiện hướng dẫn thực hiện.
Như ngón tay chỉ mặt trăng. Nhận thấy được mặt trăng phải vượt thoát khỏi
ngón tay, cũng như vậy, vượt thoát khỏi tri kiến mới nắm bắt được thực tại.
Thực tại là tự tánh của sự vật. Những hình ảnh của sự vật (thức) theo thời
gian kết tựu (Tàng thức). Thời gian đi từ tự tánh của sự vật: Chơn không, Thực
tại, Thực hữu. Thực chất là chân lý thì không biến đổi. Ðã là chân lý thì phải
thường hằng, bất biến. Vì lẽ đó, cho nên ta có thể thấy lại trong thực tại bên
ngoài cái ý niệm thời gian, mà ta biết một cách tuyệt đối. Ðó là ý niệm lại cái
thực tại thì không còn là thực tại, dù trải qua một sát na, nó chỉ là một quá
khứ. Tri kiến là tâm quá khứ. Chân thể là sự trở lùi của Sử tính Thời tính, vì
thời tính là sử tính. Ấn tượng tri giác vận chuyển nối tiếp như một dòng sông
chảy xiết. Dòng nước trôi chảy liên miên, những giọt nước không bao giờ lập lại,
nhưng những giọt nước đều có hình ảnh giống nhau; do đó dù tự thể của chúng luôn
luôn sai biệt, nhưng hình ảnh chúng không sai biệt.
Muốn dẹp bỏ tâm quá khứ là trở về giọt nước ban đầu của những giọt nước triền
miên lưu chảy mà ta đang thấy, giảm trừ thời gian từ hiện tại đến đầu nguồn quả
thật cũng là một giả vọng trong quá trình tư duy mà thôi.
Trở về nguồn của thực hữu, cái hiện đang là, cái hiện đang là đó, tức là
không có tâm quá khứ vốn mang nhiều tri kiến nặng nề, làm cho tâm hồn vẫn đục,
vọng tưởng triền miên không dứt. Ðó là ta mới giảm trừ thời gian. Còn điểm trở
ngại nữa cái tâm không thì không còn trung gian của các căn nữa. Vượt khỏi ngũ
giác quan của mình để nguyên vẹn cái tâm không trực nhận thực hữu. Là ta đã giảm
trừ không gian và thời gian, là hai yếu tố làm chướng ngại cho cái tâm tự tại
vậy. Tâm lúc bấy giờ thể nhập chốn tịch tĩnh y nhiên. Thực tại, thực hữu chính
nó là nó mà tâm thể nhập ngay lúc ấy và tại ấy hiện tiền. Khi dùng văn ngôn để
diễn tả cái ý chỉ thì thực hữu ấy không còn là hiện hữu nữa. Giải thoát tri kiến
là tiến trình tri thức đúng về nhận thức sai lầm tri kiến giả lập, và giải thoát
nó, để trở về thực thể tức là tự tính tuyệt đối của tri kiến hay là con đường
giác ngộ. Vậy trong sự sống làm thế nào nắm bắt được chân lý tối hậu ấy? Ðó là
lối dụng công, là phương pháp thiền, là cách giải tỏa những khắc khoải của con
người trong hàng vạn thế kỷ trước khi đức Phật ra đời. Ánh sáng đuốc tuệ đã tỏa
ra, đạo pháp tuyệt vời của đức Phật đã phổ biến khắp quần sanh. Chúng ta muốn
nắm bắt chân lý tối hậu ấy, không gì bằng dùng những phương tiện tối ưu do đức
Phật đưa ra; mà trong mọi cách, theo Phổ Nguyệt, chỉ có Trí rộng lớn vô cùng
tận, tức là Trí Bát Nhã Cứu Cánh, mới có thể kham nhẫn tiến tới giác ngộ. Chúng
ta cần triển khai Trí Bát Nhã để thể hiện đạo sống hàng ngày, bằng cách Thắp
Sáng Hiện Hữu trong cái Tâm Bình Thường là ta đã giải thoát mọi tri kiến giả lập
hầu trở về Chân Tính của vạn hữu.
-ooOoo-