THỰC TẠI & CHÍ ÐẠO
Tác Giả: Phổ Nguyệt
Xuất Bản Năm 2002
|
PHẦN II
CHƯƠNG MỘT
CÁI NHÌN BÁT NHÃ TÂM KINH QUA LĂNG KÍNH THỜI KHÔNG
I. MỤC ÐÍCH - KHÁI NIỆM TƯ DUY VỀ THỜI KHÔNG
1). Chủ Ðích :
Chủ đích của bài lý giải Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
Ða qua Lăng Kính Thời Không, với sự mong mỏi của Phổ Nguyệt là đưa một luồng gió
mới đến quý độc giả, một tri thức cụ thể, có thể trực nhận thực tướng của vạn
pháp. Phổ Nguyệt xin lấy bản Hán văn của Ngài Huyền Trang (đã trích) mà phân
giải quyển kinh Bát Nhã. Yếu chỉ của Bồ Tát Quán Tự Tại đã thực hành Trí Bát Nhã
thâm sâu ghi lại những điều tâm đắc và chứng đắc là để lưu truyền cho hậu thế
nương tựa tu tập. Khi trao truyền yếu chỉ cho chúng sinh hành trì, dĩ nhiên là
chúng sinh từ trạng thái chưa giác ngộ cố gắng học hỏi cho hiểu rõ yếu chỉ của
kinh và nhiệt thành thực hiện đúng đắn, ắt sẽ đạt cứu cánh. Do đó, lập trường
của Phổ Nguyệt là trình bày Trí Bát Nhã Cứu Cánh nầy với tinh thần của một chúng
sanh bình thường có trình độ một ít trí tuệ, từ đó trao dồi, học hỏi, tu hành
tiến tới trí tuệ cao hơn và đạt cứu cánh, âu đó cũng là mục đích muốn truyền dạy
của đức Phật qua tiêu đề Quán Tự Tại.
2). Nhận Ðịnh về Thời Không:
+ Theo ý nghĩa của của danh từ Hư không hay Không gian là cái không Không
Thật Có. Còn phân tách từ ngữ, Hư là không thật, Không là không; Hư không là
Không Thật Không. Vậy Hư không là cái không thật có, cũng là cái không thật
không. Hư không là không gian bao la vô cùng tận, cái rỗng không. Vậy Hư không
cũng là cái Thật Có hay cái Thật Không. Vậy thì :
- Cái Không Thật Có : Thể huyển hóa, giả lập
- Cái Không Thật Không: Không có Thực thể, Tánh Không
- Cái Thật Có: Thể hiện tiền, thực tại
- Cái Thật Không: Không có gì ngoài Cái Thật, Chơn Không: chỉ có Chơn, Tánh
Không, Bản tánh trong sáng thanh tịnh.
Theo Phật giáo, Hư không là Không gian, khoảng cách, không khí hay môi trường
sống. Ðó là Không đại, một trong thất đại.
Không gian là bầu dung chứa vạn hữu và cái rỗng không. Khi sự vật được dung
chứa trong không gian, Tánh Không (khối cố định chiếm khoảng không) là hư không:
Tướng Không của sự vật được giới hạn trong khoảng không của hình dáng riêng biệt
của sự vật.
+Khi khởi đầu, đứng trước Cái Chưa Là, tức cái dự phóng tương lai, vì Tương
Lai là cái không bao giờ đến. Từ cái Chưa Là, ta vừa bắt đầu Cái Trở Nên, tức là
Cái Ðang Là hay Hiện Tại. Từ Cái Ðang Là ta mới biết Cái Ðã Là hay Quá Khứ. Ba
thì đó tạo thành thời thể.
Thời gian là thực thể của Trở Nên. Thời thể trở nên Hư không khi sự vật ở
trong trạng thái thụ động tiêu cực. Trong trạng thái thụ động, sự vật tùy thuộc
vào chính nó, đó là thực tại tính của sự Trở Nên tức là tiềm năng của Thực Hữu.
+Khi thời gian bị tiêu hủy, không gian thu hẹp ở Hữu Thể
( sự vật chiếm cứ không gian), lúc ấy kể như không gian triệt tiêu chỉ có
Tánh Giác về Hữu Thể. Khi thời gian vừa khai mở, Hữu Thể biến thành Trở Nên thì
Hữu Thể đó Ðã Là (Quá khứ). Hữu Thể (Ðã Là) tức là trở nên Hữu Thể mới không còn
là chính hữu thể trước nữa, tức là không thật là hữu thể cũ. Quá khứ là hư
không, không thật.
+ Dung lượng và thời lượng tăng hay giảm theo tỉ lệ thuận của sự phát triển
của không gian và thời gian. Bánh xe thời gian chuyển động trong không gian vô
tận. Không gian sẽ biến thiên đến cực tiểu hay tiêu hủy khi thời gian tàn lụi
đến triệt tiêu.
+Sự vật tự thân nó đã có mầm mâu thuẫn nội tại. Sự sanh diệt của sự vật do
lực cản của chính sự vật (nội thân) và lực hút của vũ trụ (thời không là chủ
yếu) và những nhân duyên ngoại tại khác. Cho nên sự vật không có thực thể, nên
gọi là Tánh Không. Tướng Không của sự vật theo nhân duyên hợp mà sanh diệt bởi
mâu thuẫn ngoại tại của không thời gian và tác động khác. Hai lực nội ngoại nầy
chi phối sinh mệnh của vạn pháp. Luật nhân quả, hay sanh diệt đều nằm trong phạm
trù của Thời- Không. Xét cho cùng, nếu không có Thời Không thì qui luật nhân quả
không thể phát triển được, và Hữu Tự Tại được hiển bày.
+- Nhắc lại, theo Thích thiền Ba La Mật Thứ Ðệ Pháp Môn quyển 1, giải thích;
Không gian vô tận có hai thế giới: thế giới mê vọng và thế giới giác ngộ;
- Lại theo Long Thọ Bồ Tát cũng đã nói ở Phần I, Trung Không Diệu Hữu.
Trong không gian có nhiều điều huyền diệu:
- Thứ nhất: Chứa thế giới mê vọng là huyễn hóa, không thật, chằng chịt nhân
duyên, ràng buộc luân hồi, sanh tử tức là Cái Không thật có cũng Không thật
không.
- Thứ hai: Chứa thế giới giác ngộ, chơn thật tức là Cái Thật có tức là Cái
tùy thuộc vào chính nó, Cái chơn không, Cái thiệt Hư không hay Tánh Giác cũng là
Chơn tâm, Niết bàn.
+Chúng tôi muốn bàn đến thời gian và không gian là yếu tố quan trọng trong
vấn đề sanh diệt nhân quả. Mọi vật trong không gian nầy đều bị nhân quả của năng
lực Thời Không chi phối. Như trong không gian có vũ trụ, thái dương hệ.. . , địa
cầu. Mọi vật trong địa cầu đều bị sức hút (trọng lực) làm ảnh hưởng đến chất và
lượng của bản thân chúng; ngay cả trái đất cũng lệ thuộc vào vận hành của thái
dương hệ và chuyển động quanh quỹ đạo v. v.. đều nằm trong không gian. Trọng lực
của trái đất (không gian) và lực cản của sự vật (nội chất), dung chứa trong
không gian là hai lực mâu thuẫn Hút và Cản, tạo ra sự sanh diệt của sự vật. Lực
Kéo của vũ trụ vô cùng to lớn -- trong khi lực Cản của sự vật quá nhỏ, ngay cả
núi Thái Sơn, đối với không gian bao la vô tận cũng không thấm vào đâu. Cho nên
theo thời gian, sự vật sẽ bị lực Kéo (không gian) hủy diệt mà thôi. Chúng tôi
không muốn đề cập đến những nhân duyên phụ khác (không đáng kể trong trạng thái
bình thườngso với trọng lực) như ánh sáng, âm thanh, không khí v. v.. . Tất cả
sự vật được dung chứa trong không gian đều có lực cản của chính nó và bị trọng
lực thu hút và ảnh hưởng của sáu đại khác, có thể gây thêm cho sự vật ấy di động
với những tốc độ khác nhau và có thể làm tổn hại đến chính nó và các sự vật
khác. Trung Không Diệu Hữu cũng có nghĩa là trong không gian chứa biết bao điều
huyền diệu. Trong không gian dung chứa tất cả mầm sanh diệt hay không gian đồng
hóa với mầm sanh diệt tức là không gian coi như là mầm sanh diệt. Cũng tương tự
như thế “Tàng Thức là kho chứa tất cả những Chủng Tử hay Nguyên Nhân Phát sinh
của Thực Tại Kiến Lập:.. . Tàng Thức được định nghĩa là nguyên nhân phát sinh
của tất cả hiện tượng giả lập bởi vì nó luôn luôn hiện diện như là nguyên nhân
của các hiện tượng nầy”.. . (TC Triết 1, tr. 47)
Không gian huyền diệu như vậy, tất nhiên nó không chỉ dung chứa sự vật mà còn
tác động đến sự sinh tồn của sự vật nữa. Với sự tiếp tay của Thời gian, Không
gian biến hoá mọi vật rất nhịp nhàng theo quy luật nhân quả mà sự sinh diệt hầu
như mang sẵn trong nội thân của chúng. Dù giải thích riêng rẻ về mâu thuẫn nội
tại hay ngoại tại, sự vật rốt cuộc cũng bị Thời Không chi phối. Sinh Mệnh của
mọi vật đều do Thời Không giữ quyền sanh sát. Sự vận hành của vũ trụ (tác động
của Thời Không) là Thực Tính của Hư Không.
3). Thời Không Và Triết Lý Duy Thức
Trong Duy Thức, tri thức thực tại là thể nhận tánh không. Trong cái Không
Thật Có và cái Thật Có của Hư không chứa hai thế giới: Vọng và Chơn. Giữa đúng
và sai, Niết bàn và Luân hồi, Bồ đề và Vô minh v. v.. . theo quan niệm của Phật
giáo là hai con đường Nhận Thức Ðúng và Nhận Thức Sai mà thôi. Trong thế giới
chơn vọng lẫn lộn mà tri thức đúng được thực tại, quả là một vấn đề nhận thức
sâu sắc qua quá trình tư duy của một trí tuệ khai mở. Duy Thức Tính Không và
Tính Vô Ngã của lịch trình thanh lọc huyển thể của chủ tri và đối tượng (chủ
khách) được thể hiện qua ba tự tính sau đây: Tự tính giả lập, Tự tính tùy thuộc
và Tự tính tuyệt đối.
(a). Tự Tính Giả Lập (Báo Thân):
Tự tính giả lập là tự tính của thực tại kiến lập tự nhiên (sự vật). Khi sự
vật được nhìn thấy qua nhãn căn, thì hình ảnh của sự vật đó chỉ thực sự được
thấy ở võng mạc của nhãn căn mà thôi. Hình ảnh được hội tụ qua lăng kính của
nhãn căn từ sự vật bên ngoài không gian. Hình ảnh ấy tăng hay giảm tùy theo vị
trí khoảng cách không gian gần hay xa đối với chủ thể. Cơ quan cảm giác của mỗi
người đều khác nhau, cho nên cái thấy đó cũng có chỗ khác nhau. Vì khi ta thấy
sự vật ở ngoài không gian, kỳ thực là ta chỉ thấy hình ảnh của sự vật, nên sự
vật mà ta thấy đó cũng không thật. Thực tại kiến lập tự nhiên ấy chỉ là một thực
tại giả lập mà thôi. Cho nên tự tính của sự vật kiến lập tự nhiên gọi là tự tính
giả lập.
Tự tánh giả lập cũng là Tánh Không. Tánh Không ở đây có hai nghĩa :
- Hình ảnh là thể không: không nắm bắt được, hư không;
- Hình ảnh đó không thật, vì do giác quan và thời gian thay đổi.
Tự tánh giả lập của thực tại được kiến lập tự nhiên có sở hữu của Thể tính
không (hư không) hay Tánh Không; và có Biệt tính -- hình tướng riêng biệt của
từng sự vật -- là Tướng Không của nó.
Vậy Tự tính và Biệt tính giả lập (hình ảnh) của sự vật nhìn từ nhãn căn chỉ
là những bóng dáng của sự vật, vì chúng không thật có (Tánh), cũng không thật
không (Tướng), nên chúng chỉ hiện hữu trên bình diện công ước hay ngôn ngữ của
chủ thể và giả lập của khách thể.
Tự tánh giả lập còn gọi là Báo Thân; nó thay đổi theo thời không, cho nên nó
có sanh có diệt, có tăng có giảm.
(b). Tự Tánh Tùy Thuộc (Hóa Thân):
Cái Trở Nên -- Hữu thể (sự vật) -- được kiến lập do nhân duyên tác động bởi
Tàng thức. Từ sự vật được trông thấy bởi nhãn căn, đó chỉ là hình ảnh của sự
vật, là Tướng Không của hình ảnh đó tùy thuộc vào sự vật duyên hợp (không hiện
hữu tự nhiên). Còn sự vật được kiến lập tùy thuộc vào nhân duyên của thọ tưởng
hành thức hay thay đổi thì tự tánh của chúng cũng là không. Bóng dáng của sự vật
do duyên hợp cũng chuyển biến theo thời gian và quan niệm kết tụ bởi thọ tưởng
hành thức (lục dục, thất tình).
Cái trở nên là cái không thật có, cũng không thật không. Tự tánh tùy thuộc
cũng nằm trong phạm trù tánh không. Tự tính tùy thuộc được thể hiện tướng sanh
diệt do tác động thời gian và quan niệm chi phối. Thời gian ngưng chuyển, tức
thì tự tính tùy thuộc cũng tuyệt tích, vì nhân duyên không thể phát triển. Chủ
thể (Ý) nhận thức được tướng không của sự vật tùy thuộc vào nhân duyên tìm ẩn
trong tàng thức. Chủ thể và sự vật đều tùy thuộc vào nhân duyên mà tri nhận, nên
sự tri nhận đó cũng không thật và chắc chắn. Tự tính tùy thuộc của sự vật cũng
là vô tự tính hay tánh không. Sự vật biến đổi (sanh diệt) làm cho hình ảnh của
chúng mà con người trông thấy màu sắc, tốt xấu, sạch nhơ v. v.. tùy theo quan
niệm của cá nhân.
Tự tánh tùy thuộc còn gọi là Hóa Thân.
(c). Tự Tánh Tuyệt Ðối (Pháp Thân):
Tự tánh tuyệt đối là thực tính hay chân như của sự vật. Sự vật tùy thuộc vào
tự thân chúng nghĩa là không có tự tính giả lập hay tùy thuộc áp đặt lên chúng.
Xét về Tánh, Tự tính Tuyệt đối là cái Thật Có, là Chân như, Niết bàn, nó chính
là nó. Xét về Tướng, Tự tính Tuyệt đối là cái chỉ Có Thật không gì ngoài nó, là
Chơn không: chỉ có chơn không có vọng, cái bất biến, thường hằng.
+Từ quan điểm Không gian, sự vật chiếm cứ không gian và Không gian dung chứa
sự vật là Một, nó chính là nó, không gì ngoài nó, không có gì áp đặt lên nó: Vô
Không gian.
+ Từ quan điểm Thời gian, sự vật tùy thuộc vào chính nó tại đó và lúc đó hay
trong khoảnh khắc hiện tại: Vô Thời gian.
Không gian dựa trên bánh xe thời gian để bành trướng chính mình vào khoảng
không vô tận, nên khi không gian co rút đến cực tiểu, tức chỉ còn duy nhất sự
vật hiện hữu mà thôi, lúc ấy thời gian sẽ giảm thiểu đến cực điểm tuyệt đối (số
không). Cho nên ta có thể nói rằng tự tính tuyệt đối của sự vật là hình thức của
sự vật vượt khỏi Thời Không. Nói cách khác, khi chủ thể nhận thức, và sự vật bị
nhận thức được tri nhận một cách tuyệt đối vượt khỏi nhị nguyên tính (chủ
khách). Hình thức tính Không (Không Thời Không = Không Chủ Khách) là Hư không;
mà thiệt Hư không là Tánh Giác vậy. Ðây là tiến trình Tri Thức Ðúng Cái Thực tại
Giả Lập hay Cái Thực Tại Bị Tri Nhận Sai Lầm. Tri Thức về Cái Tri Thức Ðúng và
Tri Thức Sai là Trở Về Chân Nguyên, thực tính của Tri Thức hay Tánh Biết. Tánh
Biết giải thoát mọi sự hiểu biết thường tình tức là hiểu biết sai lầm về thực
tính của sự vật. Nhắc lại, Tánh Giác theo như Tánh Hư không, đức Phật giải
thích: A Nan! Ngươi phải biết trong Tạng Như Lai, Tánh Giác tức là thiệt hư
không, Hư không tức là Thiệt Tánh Giác thanh tịnh bản nhiên, đầy khắp pháp
giới.. . ( Bát Nhã Tâm Kinh qua Cái Nhìn của Duy Thức, tr. 56).
Cả Vật lẫn Tâm đều có Tánh Không.
Tự Tánh Giả Lập hay Tùy Thuộc của sự vật là không thật.
Tự Tánh Tương Ðối của Tâm (Phàm tâm) cũng không thật.
Chỉ Tự Tánh Tuyệt Ðối của sự vật là chơn thật, là Thiệt Hư không.
Tự Tánh của ChơnTâm là Thiệt Hư không.
Theo sách Tử Thư nói về một khía cạnh của Hư không viết như sau:
Chân ngã ở bình diện tối cao, nói giống như thực tại, nghĩa là y hệt Hư
không, không thể nắm bắt được mỗi hiện tượng.. . (tr. 105)
Tự tánh của Tâm hay Vật, Chủ thể hay Khách thể đứng trên bình diện vô Thời
Không đều là Thiệt Hư Không; Thiệt Hư không là Chơn Như của Tâm hay Vật, là Niết
bàn,là Thực Tại tính. Chân tính của Tâm hay Chân Ngã (chân tâm) và chân tính của
sự vật đều là thiệt hư không, mà thiệt hư không là Tánh giác, vì Tánh giác là
cái dụng của Chân Tâm. Chân tâm là Tự tính tuyệt đối, là Thực Tại tính Vô Thời
không, là vượt lên nhân duyên, đối đãi, nhị nguyên chủ khách. Vậy trực nhận bản
tính tự nhiên của Tâm cũng chính là trực nhận bản tính tự nhiên của sự vật. Tâm
và Vật lúc bấy giờ là đồng tánh không.
Chủ thể nhận thức tự tánh khách thể giả lập, sai lầm, hay là nhận thức sai
lầm về tự tánh khách thể, chỉ là nhận thức của phàm trí mà thôi. Nhận thức năng
sở của phàm trí cũng là nhận thức không thật đúng; cũng sai lầm, đó là nhận thức
bị ràng buộc của nhân duyên, và sự giả lập của sự vật. Ðó cũng là mấu chốt của
luân hồi, khổ đau.
Cho nên, Tri Thức Ðúng là tiến trình nhận thức đúng thực thể và giải thoát
khỏi khổ đau ràng buộc bởi nhân duyên chằng chịt, sanh tử, luân hồi.
Tóm lại, tự tánh giả lập là tự tánh không thật có trong thế giới mê vọng của
hư không (Tánh không).
Tự tính tùy thuộc là tự tính không thật không, cũng ở trong thế giới mê vọng
của hư không (Tánh không).
Tự tính giả lập và tự tính tùy thuộc là khi sự vật đó tự vượt ra khỏi chính
chúng nó để vạch ra bóng dáng trong không gian. Ðã vượt ra khỏi sự vật, là những
bóng dáng chúng không còn thật là chúng nữa, là giả vọng mà thôi.
Tự tính tuyệt đối là tự tính thực có trong thế giới chơn thật của hư không.
Tự tính tuyệt đối là tự tính đó vượt ra khỏi thời không, nghĩa là không vượt
khỏi ra chính nó. BA HÌNH THỨC TỰ TÍNH ( Ba Chân Lý):
Tự tính Giả Lập: Không Thật có;
Tự tính Tùy Thuộc: Không Thật không;
Tự tính Tuyệt Ðối: Thật Có, cái tuyệt đối. Cả ba đều là Tánh Không.
Không đi theo con đường Bên Nầy: không thật có (giả lập), và không thật không
(duyên khởi), Mà theo con đường Bên Kia: thật có, chơn không, niết bàn, tức là
Trung Ðạo: con đường của Tánh Không, hay là con đường giải thoát đến bờ Giác
Ngô.
Tóm lại, tự tính Tuyệt Ðối là Hư không tức là thiệt tánh giác. Tánh giác là
cái Biết về chính mình biết. Biết về chính mình biết là tiến trình của Thực Biết
và giải thoát khỏi cái biết sai lầm chằng chịt nhân duyên, giả lập, khổ đau,
luân hồi.
Tánh Giác vượt khỏi nhị nguyên đối đãi, chủ thể và khách thể, tức là Tri Thức
Ðúng về Chủ Thể (Tự Giác, Tự Tính Tuyệt Ðối) và Tri Thức Ðúng về Khách Thể (Giác
Tha, Tự Tính giả Lập hay Tùy Thuộc) để giải thoát mọi sai lầm của Chủ Tri và giả
lập của Khách Thể. Ðó là con đường về Chân Nguyên; đó cũng là Thể Cách TỰ GIÁC
và GIÁC THA.
II. CƠ CẤU CỦA CÁI TRÍ HAY TÁNH GIÁC (Theo Thời Không)
Tự tính tuyệt đối của Tâm là Thể Không của Tâm. Trí hay Tánh Giác là Dụng của
Tâm, Như chúng tôi trình bày ở phần đầu, biểu tượng (Dụng) của Tâm gồm có Trí
năng, Tình năng và Hoạt năng, mà Trí năng là đầu mối phát sinh mọi hoạt động ảnh
hưởng đến vật chất và tinh thần trong đời sống hàng ngày. Trí năng là một yếu tố
quan trọng nhất trong ba cái dụng của tâm. Trí năng được bắt đầu bằng Nhãn căn
trong Lục căn. Do đó, chúng ta nghiên cứu Tánh Thấy hay sự hiểu biết sự vật qua
tánh thấy. Sự hiểu biết ấy cũng đều được thể hiện qua lục căn.
Mở một cửa trong sáu cửa để đi vào trong nhà (kho chứa sự hiểu biết) ắt cũng
được vào trong nhà và mở các cửa kia.
A. Phân Tách Ngũ Uẩn -
a). Cảm Giác ( Ngủ giác quan )
Ðiển hình về Nhãn Căn qua chức năng Thị Giác:
+ Ban ngày, khi chúng ta nhìn một vật ngay phía trước chúng, hình ảnh khi
nhìn sự vật qua thấu kính của mắt được hội tụ ở trên hố mắt của võng mạc. Nón
(dây thần kinh liên hệ đến bộ não) đáp ứng một cách khác nhau đến những làn
sóng, hay màu sắc khác nhau của Ánh Sáng. Những nón (cones) nầy thích ứng với
màu sắc thị giác. Mỗi nón đáp ứng đến chỉ một trong ba làn sóng khác nhau của
ánh sáng (đỏ, xanh biển, xanh dương). Bằng cách kết hợp những phản ứng tới những
làn sóng dài, vừa, ngắn, những tế bào nón có thể chỉ định màu của bất cứ hình
ảnh nào. Những nón rất nhạy cảm tới những đặc trưng ở xung quanh dù nhỏ đến đâu.
+ Ban đêm thì khác, những tế bào que (rods: dây thần kinh liên hệ đến não)
rất nhạy cảm với ánh sáng mờ, dù chúng không sắc bén nhiều. Vào buổi tối, nếu ta
liếc nhanh hình ảnh của bóng mờ ngoài góc của con mắt, chúng ta sử dụng những tế
bào que. Nếu hình ảnh mờ ấy biến mất, khi chúng ta nhìn thẳng vào nó, chúng ta
chứng kiến sự mất tế bào nón vào lúc chúng ta không chú ý làm tụ những bóng mờ
đó trên hố mắt ở võng mạc.
+Khi năng lực của Ánh Sáng (sáng hay mờ) đến cơ quan tiếp nhận hình ảnh,
những tín hiệu thần kinh được gởi xuyên qua hệ thống thị giác sản sinh những cảm
giác. Con đường đi ấy bao gồm những tầng lớp, qua đó ánh sáng phải qua trước khi
được thu hút bởi cơ quan tiếp nhận hình ảnh. Một phản ứng hình ảnh hóa học được
tạo ra trong cơ quan tiếp nhận hình ảnh, sản sinh những dấu hiệu thần kinh, đầu
tiên được chuyển đến những tế bào lưỡng cực, rồi đến những tế bào hạch. Những
tín hiệu thần kinh lúc đó đi dọc theo trục võng mạc đến hạt nhân cong khập bên
của chất xám. Những tế bào trong hạt nhân cong khập nầy sắp đặt lại tín hiệu
(khích thích cảm giác) tới xương chẩm thùy não để được điều hợp và hoàn thành
chức năng thị giác.
Tương tự như thế, con đường để thực hiện tánh Biết qua các căn khác như nhĩ,
tĩ, thiệt, thân cũng vậy, tuy có khác về cơ cấu sinh học, nhưng tựu trung cũng
đều được các dây thần kinh chuyển các hình ảnh, chấn động lực, không khí hay
chất hơi hay ấn tượng kích thích, sau cùng cũng chuyển đến chất xám ở vỏ não để
sản sinh những cảm giác tương ứng với các căn.
Chẳng hạn như:
-- Nghe một âm thanh là nghe độ rung (chấn động lực) hay ấn tượng của âm
thanh do làn sóng âm thanh va chạm vào màng nhĩ (Tai).
-- Ngửi mùi hương là ngửi ấn tượng mùi hương, là không khí hay hơi (tức là
chất hóa học hòa tan trong không khí) ở màng mũi.
-- Nếm một vị là nếm chất hóa học (ấn tượng do kích thích giữa vị toan và
nước miếng tạo nên) ở lưỡi.
-- Xúc giác một vật là tiếp giáp hình ảnh của những kích thích của da (hay cơ
thể).
(b). Ý Thức (Consciousness):
Có thể định nghĩa, ý thức là cử chỉ hay tiến trình được Biết, đặc biệt về
vùng xung quanh ta và điều kiện của thân thể. Cũng là Tĩnh táo, Biết được những
gì đang xảy ra.
Thật ra, Ý thức thường được định nghĩa là sự hiểu biết (awareness) tích cực
của tất cả tư tưởng, hình ảnh,tri giác và cảm xúc chứa trong trí với thời gian
qui định. Ý thức là Cái Quan sát chính chúng ta và xung quanh ta như là cách
chúng ta làm trong thiên hạ. Ý thức cho phép chúng ta sử dụng sự kiểm soát các
điều chúng ta hành động, kinh nghiệm, và chọn lựa giữa những cách tư duy hay
hành động. Nhưng Ý thức thì nhiều hơn sự hiểu biết đơn giản của chính chúng ta
và xung quanh ta. Ý thức có tính đơn thuần và nó thống nhất kinh nghiệm chúng ta
vào Cái Toàn thể. Khi chúng ta lắng nghe một người nói, chẳng hạn, chúng ta nghe
nhiều hơn là những tần số và cường độ của âm thanh, nhiều hơn một chút kích
thích thính giác. Ðể thay vào, chúng ta biết được toàn bộ những lời nói và chúng
ta hiểu được ý nghĩa của những lời đó, bởi vì đó là cách thức mà Trí chúng ta tổ
chức và tổng hợp kích thích thính giác.
Nếu cái đơn thuần của Ý thức (cục bộ) cho phép chúng ta tri giác và hiểu được
kinh nghiệm như là cái Toàn thể, thì tính chọn lọc của Ý thức để cho chúng ta
tập trung vào bộ mặt đơn độc của cái toàn thể. Vậy chúng ta có thể tập trung vào
hình dáng đối thể, màu sắc, kích thước,thực thể, công dụng hay bất cứ đặc tính
khác. Bằng vào biểu hiện đó, chúng ta có thể tập trung vào cảm tính, ký ức, hay
tư tưởng riêng biệt. Tính chọn lọc như thế là cốt yếu cho hoạt động chức năng
hàng ngày của chúng ta. Nhiều cảm giác tư tưởng, cảm tính và ký ức dễ ảnh hưởng
đến chúng ta ở một thời điểm có sẵn, đến nỗi khi chú ý chúng, chúng có thể lấn
áp chúng ta. Vậy, tính chọn lọc của Ý thức cho phép chúng ta điều chỉnh chỉ có
dữ kiện cần đến và loại bỏ cái không cần.
May mắn, kỷ thuật cận đại giúp các nhà nghiên cứu vượt qua những trở ngại
thầm hội được Ý thức. Trang bị cho mạch điện đồ và hoạt động dây thần kinh trong
não bộ cung cấp được những ý nghĩa mới quan trọng để nghiên cứu một số việc
thuộc sinh lý học xảy ra trong những trạng thái khác nhau của Ý thức. Chẳng hạn,
chúng ta biết được dữ kiện mô lưới, một phần của não bộ sau giữ vai trò bảo trì
Ý thức. Khi phần não đó bị kích thích, con vật trở nên quá mẫn, những vùng như
vậy bị thương, con người mất cảm giác trên mào lông (coma). Bởi vì óc con người
có thần kinh phát triển cao độ của võ não trong giới loài vật, và bởi vì con
người cũng dường như biểu lộ sự phát triển cao độ ý nghĩa của Ý thức mà các
nghiên cứu gia cho rằng lớp vỏ não cũng phải liên hệ với sự hiểu biết Ý thức.
Tóm lại, sự hiểu biết Ý thức có tính lưỡng phân như Kant đã quan niệm. Thật
vậy, Ý thức tác động là do tiền ngũ căn (ngũ giác quan) tiếp nhận sự vật và Tri
giác (Biết). Còn Ý thức tác năng là sự hiểu biết có sẵn trong tàng thức, không
do tác động của ngũ căn mà chúng ta có thể dùng trực giác để hiểu biết. Như thế
Ý thức cũng là tác năng tự phát.
Kết luận, Ý thức cũng chỉ là những hình ảnh, dấu vết sự hiểu biết mà cái Trí
( bộ óc ) nhận thức.
(c). Cảm Xúc (hay Cảm thọ: Emotion):
Cảm xúc là một phần lớn cuộc sống thường nhật mà khó có thể tưởng tượng được,
nếu đời sống không có nó. Cảm xúc làm cho phong thái của kinh nghiệm chúng ta
hoạt động và đem đến cho đời sống một sinh khí của nó. Nếu không có khả năng cảm
nhận sự giận dữ, nỗi đau buồn, niềm vui, và tình yêu, chúng ta khó mà thừa nhận
chính chúng ta là con người.
Rõ ràng, cảm xúc bao gồm sự thay đổi cảm tính -- thường kích thích bởi hoàn
cảnh ngoại giới mà chúng ta ít kiểm soát. Sau cùng, cảm xúc có thể tác động đến
tư cách. Cảm xúc có thể được định nghĩa như là mô hình phản ứng bao gồm sự thay
đổi sinh lý, biểu lộ tư cách và trạng thái cảm tính. Cảm tính thường phát sinh
trong sự đáp ứng của liên hệ xã hội hay hoàn cảnh thử thách qua nhiều phương
diện. Bản chất của phản ứng cảm xúc ảnh hưởng đến cách thức một người đánh giá
và khắc phục hoàn cảnh. Tất cả các nhà Tâm lý đều đồng ý rằng cảm xúc mạnh liên
hợp với sự thay đổi trong hệ thống thần kinh tự động. Một cách giám sát sự thay
đổi sinh lý kèm theo cảm xúc bởi một phương tiện máy móc gọi là Ða mạch đồ
(Polygraph).
Mặc dù hệ thống thần kinh tự động gây nên sự thay đổi sinh lý kết hợp với cảm
xúc, hệ thống nầy được sắp xếp bởi bộ óc. Ðặc biệt khối dưới chất xám
(hypothalamus) và một vài phần hệ thống limpic (limpic system) liên quan trong
một số phản ứng cảm xúc như: nóng giận, gây hấn và sợ hãi (Pribram,1981).
Stanley Schachter và Jerome Singer đã đề nghị rằng cảm xúc bao gồm hai thành tố
đối tác lẫn nhau: trạng thái đánh thức sinh lý và sự làm sáng tỏ tri thức của
cái đánh thức ấy. Họ qui cho năng lực chúng ta hiểu được sự đánh thức gán cho
những cảm giác tổng quát là những cảm xúc đặc biệt.
Vậy cảm xúc hay cảm thọ là ý thức được đánh thức qua sự thay đổi sinh lý vì
phản ứng thần kinh não bộ do các kích thích hình ảnh của cảm giác, tư tưởng,
hành động hay tình cảm bị va chạm.
(d). Hành Ðộng (Motivation):
Hành động là động cơ thúc đẩy hoạt động, được định nghĩa như là điều kiện xã
hội, tâm lý hướng dẩn tư cách cá thể đến vài mục đích nào đó. Mặt khác, xu hướng
(drive) là điều kiện sinh vật thực hiện chức năng hướng đích.
Theo Sigmund Freud cho rằng động cơ hoạt động là do hai lực (forces) của vô
thức (Tàng thức): Một là lực thúc đẩy đến sự sinh tồn, sự sinh sôi nẩy nở, và sự
tự bảo tồn; thứ hai lực thúc đẩy đến sự tử vong và tự hủy diệt. Bởi vì cách thức
mà con người thỏa mãn xung lực (sức đẩy tới) có thể mâu thuẫn với tiêu chuẩn đạo
đức xã hội, những xung động nầy thường bị trấn áp và thăng hoa trong nhiều hình
thức của tư cách.
Có những xu hướng căn bản về sinh vật như đói, khát, sinh lý, và có những
động lực được học hỏi như nhu cầu cho thành quả và sự hội nhập. Cũng có những
động lực cảm thọ như vui, khổ, giận, sợ, và bại.
Tổng quát, hành động thúc đẩy tư cách được dẫn đến bảo quản tình trạng sinh
lý cân bằng (homeostasis) hay là môi trường bên trong bất biến và hướng dẫn đến
kiến lập cân bằng cả hai bên trong và bên ngoài.
Tóm lại, Hành động là động cơ, xu hướng hay bản năng thúc đẩy thiết lập mọi
hoạt động về tư tưởng, tình cảm hay cử động. Tất cả những động cơ, xu hướng đó
dù do năng lực bên trong hay bên ngoài, dù do tâm lý, xã hội hay sinh vật có ý
thức hay vô thức đều phải xuyên qua cảm quan hoặc các phần của cơ thể và đã
thanh lọc thành những dấu hiệu được dẫn truyền đến thùy trước của lớp vỏ não
cạnh chỗ nứt có liên quan sơ khởi đến sư điều chỉnh cử động tự ý gọi là thần
kinh tự động. Vậy Hành chỉ là sự thể hiện do nhiều xu hướng hay động cơ thúc đẩy
biến thành những dấu hiệu mà não bộ sản xuất những phản ứng thành những hoạt
động; do đó bản thân Hành chỉ là những hình ảnh dấu vết của các xu hướng, động
cơ hay bản năng thúc đẩy sản sinh ra, nên Hành không có thực thể.
(e). Tưởng (Memory, Preconsciousness):
Con người dùng ba cấu trúc tinh thần khác nhau để thiết lập ký ức: ký ức cảm
giác, ký ức ngắn hạn (short- term memory) và ký ức dài hạn. Các nhà tâm lý tin
rằng ký ức bắt đầu tại sự ghi chú cảm giác, một dữ kiện cảm giác thu nhận rất
ngắn. Cảm giác vẫn còn kéo dài một giây sau khi ta tri giác và sau đó phai dần.
Dữ kiện được tích trữ khoảng 1/15 giây, để rồi người ta có thể giữ dấu vết của
kinh nghiệm từ lúc nầy đến lúc khác. Nếu cá nhân bị xao lãng trí, và dữ kiện
hoặc là rất khác với biến cố bình thường, hoặc là có ý nghĩa với cá nhân đó, thì
dữ kiện ấy chuyển qua ký ức ngắn hạn, ở đây nó tích trữ chỉ trong một thời gian
giới hạn.
Muốn giữ dữ kiện trong ký ức ngắn hạn, người ta cần sự nhắc lại. Sự nhắc lại
bằng cách chú ý tích cực đến dữ kiên như là lập đi lập lại dữ kiện đó. Một thời
gian gián đoạn sẽ hủy diệt dữ kiện ở trong kho ký ức ngắn hạn. Nhiều ký ức ngắn
hạn nhạt dần trong khoảng vài phút. Quá trình chú ý giữ một vai trò rất lớn
trong sự xác định dữ kiện nào được chuyển từ ký ức ngắn hạn đến ký ức dài hạn.
Nếu dữ kiện không quan trọng hay thích thú, rất có thể chúng ta quên đi.
+ Ghi Lại Dấu Vết -- Tích Trữ -- Khôi Phục:
Khi những kinh nghiệm cảm giác thoáng qua được kết hợp, thì dữ kiện được thừa
nhận dễ hơn nhiều. Chúng ta có thể nhớ lại một hình thị giác kết hợp với âm
thanh (như chiếc xe hơi đang chạy: đầu máy nổ) dễ dàng hơn là hoặc máy nổ không,
hoặc một chiếc xe không. Quá trình dữ kiện hổn hợp gọi là ghi nhận dấu vết, hay
là tiêu biểu hình ảnh (sự thay thế hình ảnh). Những nét đặc biệt thiết yếu của
một vật hay mô hình được rút ra để cho sự vật có thể nhận thức sau nầy.
Ký ức ngắn hạn là tiến trình của truyền đạt tế bào thần kinh, trong khi đó ký
ức dài hạn thường xuyên thay đổi trong những vùng tế bào khớp thần kinh, là tính
chất vật lý của tế bào. Bộ óc cần thời gian để củng cố trước khi dữ kiện được
tích trữ ở trong ký ức dài hạn. Có thể là, những tế bào thần kinh cần thờI gian
để thay đổi. Tài liệu ở ký ức dài hạn có thể được đem đến vào kho ký ức ngắn
hạn, và sẽ không bị quên nếu sự suy tưởng bị xao lãng. Tuy nhiên, kho ký ức ngắn
hạn có thể chỉ còn giữ một vài thứ mà thôi. Khả năng giới hạn nầy có thể góp
phần giải quyết khó khăn cho những người có vấn đề. Con người có thể giữ lại, và
quan sát một số dữ kiện trong một lúc mà thôi. Ở đâu, ký ức ngắn hạn cũng trực
tiếp và dễ thêm vào, trong khi dữ kiện xác định đúng vị trí của ký ức dài hạn có
thể chậm chạp và khó khăn. Tuy thế, khả năng của ký ức dài hạn thì hầu như bất
tận. Một người có thể tận dụng ký ức. Không có giới hạn được biết mà con người
có thể học hỏi được bao nhiêu.
+Mặt khác, ký ức mới đối lập với cái cũ. Có hai loại đối lập: Một phải làm
với món tích trữ và nhớ lại; thứ hai phải làm với sự kiện mà những điều thu nhận
mới thể thực sự làm méo mó, xuyên tạc hay chuyển đổi những ký ức cũ.
Vậy thì ký ức, tưởng nhớ, tưởng tượng hay mac na thức là những hình ảnh được
khôi phục lại, có cái trung thực, có cái sai lạc và ngay cả có cái tương tự lẫn
lộn với hình ảnh đối tượng cũ, nhưng không phải đối tượng cũ. Ðã là những hình
ảnh cũ khôi phục lại tức là những ảo ảnh của đối tượng khiếm diện (kể như không
có đối tượng).
Do đó Tưởng là ý tưởng so đo, tưởng tượng. chấp trước, lệch lạc và không có
thực thể.
(f) Thức ( Knowledge, Unconsciousness)
Alại da thức, Vô thức hay Tàng thức.
Thức là sự hiểu biết hay nhận thức. Sự hiểu biết là Quả, còn Nhân phát xuất
từ Vô thức hay Tàng thức. Theo ý niệm của Freud về Trí vô thức rất đặc biệt khó
mà giải thích trong những điều kiện đơn giản.
Ðại khái, Vô thức gồm có tất cả ký ức, kinh nghiệm, hình ảnh, cảm tính và
động lực mà chúng ta không thể tự ý đưa ra ý thức hay quan sát trực tiếp của chú
ý. Chúng ta có thể định nghĩa bằng những thí dụ sau đây:
+Chúng ta nhắm đến trấn áp những kinh nghiệm không vui; nghĩa là chúng ta
nhắm đến đặt những vật chướng ngại trên ánh đèn để nó không thể chiếu sáng một
vài chỗ trên sân khấu mà chúng ta không thích nhìn. Những ký ức bị trấn áp lúc
đó, bị nhốt lại trong phần vô thức của trí chúng ta.
+Chúng ta đã biết phản xạ và bản năng bẩm sinh tác động đến tư cách và tư
tưởng chúng ta dù chúng ta ý thức hay không. Tim đập, phổi thở, hạch tuyến
thượng thận bài tiết chất kích thích (hormones) dù ta biết hay không nó vẫn hoạt
động. Chúng ta cũng không có ý thức của hoạt động của thần kinh về cảm thọ hay
vận động ở trung tâm não bộ. Kế đó, diễn đạt bộ điệu, những cảm tính xúc động là
một phần tiêu biểu của trí vô thức chúng ta.
+Chúng ta cũng đã biết tích trữ những thứ trong kho ký ức dài hạn tùy theo
một vài loại mà thôi. Chúng ta không thể nhớ lại nhiều kinh nghiệm thờI thơ ấu
vì chúng ta không xếp đặt chúng trong cùng loại ký ức mà chúng ta dùng như là
người lớn. Những ký ức ban đầu nầy là Vô thức bởi vì rất đơn giản là chúng ta
không biết làm thế nào khôi phục chúng.
+ Kế đó, có những giấc mộng, và ánh sáng lóe lên trong tâm thức. Theo định
nghĩa, chúng ta không ý thức trong chiêm bao, và giấc mộng thường khó đưa đến sự
hiểu biết ý thức sau khi xãy ra. Freud nghĩ rằng giấc mộng hầu hết là thí dụ
hoàn toàn của kinh nghiệm vô thức. Ðối với vấn đề nội tâm, nó thường có tri giác
một mô hình của vài loại. Nơi nào trí chúng ta đã có mô hình nầy tạo thành thì
không có trong Vô thức sao?
Bây giờ đây, chúng ta đã tri giác một mô hình chính chúng ta. Cái mà Freud
quy cho phần vô thức của trí chúng ta dường như bao gồm hai việc: Quá trình sắp
xếp bởi phần dưới trung tâm não bộ, và quá trình sắp xếp bởi bán cầu não phải.
-- Dục Tình :
Trong lúc Freud hoạch định những vùng của Trí, ông cố xác định những phương
pháp năng lực hóa, tập trung, di chuyển và ngay cả chận lại ánh sáng lóe lên của
ý thức.
Freud lựa chọn thân thể liên tục tạo ra năng lực tinh thần, cũng như máy phát
điện liên tục sản xuất ra điện năng. Freud gọi năng lực tinh thần nầy là dục
tình và ông tin rằng nó là lực thúc đẩy các khả năng của tất cả tư tưởng, tình
cảm và tư cách của chúng ta. Sự xây dựng năng lực dục tình tạo nên trạng thái xu
hướng đau khổ, nó ép buộc chúng ta trở thành hiểu biết một vài nhu cầu không
được thỏa mãn. Lúc đó chúng ta nhắm tới tập trung vào những hoạt động sẽ cho
chúng ta giải thoát năng lực đè nén đó và do đó mà giảm trừ được xu hướng. Như
vậy năng lực dục tình tiêu thụ được kết hợp với nềm vui cảm giác, trong khi đó
sự trấn áp năng lực dục tình hầu như luôn luôn dẫn đến áp lực đau khổ và lo âu.
-- Bản Năng Sinh Tồn (Id) hay Bản Năng Xung Ðộng:
Theo Freud, đứa trẻ sanh ra với tập hợp những xu hướng sinh vật và bản năng
cơ sở là nguồn gốc của năng lực dục tình. Tập hợp các xu hướng bản năng, freud
gọi là Bản năng sinh tồn hay bản năng xung động (id). Những xu hướng nầy được
sắp xếp ở trung tâm dưới não bộ, như hệ thống limpic và khối dưới chất xám. Như
thế bản năng sinh tồn được chôn ở mực sâu nhất của trí vô thức, xa cách thực tại
ý thức. Freud tả bản năng sinh tồn như là một nồi lớn của sự kích động sôi nổi,
nó không có cấu trúc nội tại hay tổ chức, nó hoạt động trong nhiều cách phi lý,
và nó chỉ tìm niềm vui đến từ những năng lực đè nén bị tuôn ra.
-- Bản Ngã hay Cái Tôi (Ego):
Theo R. M. Goldenson, bản ngã là một nhóm của những chức năng tinh thần hay
quá trình cho phép chúng ta tri giác, lý luận, phán đoán, chứa đựng những ký ức
và giải quyết nhiều vấn đề khác nhau. Bản năng sinh tồn hiện diện ngay lúc sanh
ra. Bản ngã phát triển chậm khi chúng ta học hỏi để được tinh thông những xung
động, làm chậm lại niềm vui trực tiếp của những nhu cầu và sống với những người
khác.
Bản ngã là một phần của nhân cách trong sự giao tiếp với thế giới bên ngoài.
Phần lớn, bản ngã hoạt động trong phạm vi ý thức hay tiềm thức (ký ức:
preconscious), nhưng nó bao gồm cả một vài quá trình vô thức. Giống như bản năng
sinh tồn, bản ngã là chủ thể đòi hỏi của nguyên tắc ý muốn. Nhưng khi chúng ta
trưởng thành, tự ý thức ảnh hưởng nhiều bởi nguyên tắc thực tại là đòi hỏi thực
tế của sự sống hàng ngày. Tuy nhiên, vào dịp đó, bản ngã xé ra bởi những lực đối
nghịch của ý muốn và thực tại. Nó thường giải quyết mâu thuẫn nầy bằng cố gắng
thỏa mãn ước muốn bản năng (bản năng sinh tồn) trong những cách xã hội chấp
nhận.
-- Bản Năng Ðạo Ðức ( Superego ):
Tuy nhiên, đối với nhân cách thì có nhiều hơn là bản năng sinh tồn, bản ngã,
hơn nguyên tắc ý muốn và nguyên tắc thực tại. Bởi vì khi chúng ta lớn lên, những
người xung quanh ta đòi hỏi chúng ta thực hiện luật lệ xã hội và những quy định.
Muốn thế, chúng ta phải xây dựng một ý thức để giữ chúng ta khỏi vi phạm luật lệ
và bản ngã lý tưởng mà chúng ta cố gắng đạt tới. Một phần cấu trúc của nhân cách
nầy gọi là Bản Năng Ðạo Ðức và nhìn nó như là Bản ngã được được tách khỏi và bắt
đầu hành động theo riêng nó.
Bản năng đạo đức phát triển chạm chạp và một cách vô thức trong năm đầu của
đời sống, cũng như càng gia tăng bắt chước tư tưởng và hành động của những người
khác -- trước tiên là cha mẹ chúng ta. Trong thờI thanh niên và gần trưởng
thành, bản năng đạo đức của chúng ta hoàn thiện nhiều như chúng ta tiếp xúc với
người lớn (khác hơn là cha mẹ) mà chúng ta hâm mộ họ và giá trị của họ chúng ta
nhận vào một phần hay toàn thể. Phần lớn, tiến trình xã hội hóa nầy xảy ra ở mực
độ vô thức, như bản năng đạo đức thu được, khả năng phê phán, và giám sát cả hai
bản năng sinh tồn và bản ngã. Bản năng đạo đức, do đó là tiếng nói vô thức, nó
giúp chúng ta phân biệt được giữa điều tốt xã hội với điều xấu mà chúng ta không
hiểu biết được tại sao làm như thế.
Chúng ta thử xem qua tiến trình phát triển của tư tưởng đứng trên phương diện
tâm lý.
Lý thuyết phân tâm học về sự phát triển tư tưởng tập trung vào sự thay đổi từ
tiến trình sơ khởi của tư tưởng tới tiến trình thứ hai của tư tưởng. Tiến trình
sơ khởi là ngôn ngữ của vô thức, trong đó thực tại và hình ảnh tưởng tượng đều
vô phân biệt. Bộ mặt tiến trình sơ khởi của tư tưởng thường thấy trong những
giấc mộng. Ở đây những biến cố có thể xảy ra cùng một thời gian trong nhiều chỗ,
những đặc tính khác nhau của con người và sự vật có thể kết hợp, những biến cố
di chuyển tới lui trong một thời gian rất nhanh, và cái trong sự tĩnh thức không
thể xảy ra dễ dàng. Tiến trình thứ hai của tư tưởng là ngôn ngữ của ý thức, tư
tưởng và thực tại khảo nghiệm. Song song với sự phát triển tư tưởng là phát
triển bản ngã, và sau nầy là phát triển của bản năng đạo đức. Với sự phát triển
bản ngã, cá thể trở nên khác biệt nhiều, như là Cái Tôi ( Self) từ nơi tạm trú
của thế giới. Có sự giảm bớt thiên kiến chính mình, một sự gia tăng khả năng,
gia tăng sử dụng ngôn ngữ, và có khả năng lớn hơn để tham gia sự kiện quan trọng
và làm cản trở sự hài lòng. Sự phát triển của bản năng đạo đức lành mạnh được
phản ánh trong một tập hợp thống nhất, mâu thuẫn, thông suốt của những giá trị,
một khả năng chấp nhận ngọn gió của lòng tự trọng (chấp nhận bắt chước mà không
hủy bỏ khả năng tưởng tượng), và ý nghĩa của niềm kiêu hảnh trong ý định đã thực
hiện đưọc.
Về mặt duy thức, Bồ Tát Vô Trước (Asanga) đã xem Tàng Thức như là kho chứa
tất cả những chủng tử hay nguyên nhân phát sinh của Thực Tại Kiến Lập. Thế giới
duy thực phác tố dựa trên một nguyên lý được thực hóa và xem đó là nguyên do cứu
cánh của tất cả sự vượt được xem là thực hữu. Mặc dù Tàng thức được xem là
nguyên nhân phát sinh của các hiện tượng giả lập, chúng ta không thể thực hóa nó
thành nguyên nhân cứu cánh. Tàng thức chỉ là một nền tảng năng động tàng trữ các
chủng tửnhận thức hay ấn tượng và đã lọc chúng trở lại trạng thái nhận thức hiện
hành. Do đó mà trong hệ thống Duy thức của Bồ Tát Vô Trước, Tàng thức được gọi
là kho chứa các chủng tử và thành thục, nghĩa là làm các chủng tử chín muồi
(thành thục) thành kinh nghiệm tri giác. Tàng thức được định nghĩa như là nguyên
nhân phát sinh của tất cả các hiện tượng giả lập bởi vì nó luôn luôn hiện diện
như là nguyên nhân của các hiện tượng nầy. Tuy nhiên, Tàng thức là một tiến
trình chứ không phải là một thực thể; Tàng thức chỉ là kho chứa các chủng tử
nhận thức và ấn tượng nầy (chính chúng là quả của các hiện tượng tạp nhiễm).. .
(TC Triết 1, tr. 47)
Tóm lại Ngũ Uẩn chỉ là thực tại kiến lập, là hiện tượng giả lập, là quả do
các chủng tử sinh ra từ Vô thức, Tàng thức, Tánh không hay Bản chất tùy thuộc
vào nhiều yếu tố. Do đó, Tự tính của Ngũ Uẩn vẫn là giả lập và tùy thuộc mà
thôi.
B. Các Loại Trí (theo Thời Không):
1- Trí Phân Tích. Qua không gian, nhìn từ trí phân tích, sự vật hay hiện
tượng, hay thực tại kiến lập chỉ là quả của những chủng tử sinh ra, hoặc giả
dùng thực nghiệm (thí nghiệm) bằng kỹ thuật khoa học, hoặc do suy luận mà phân
tích các thành phần kết hợp thành sự vật hay hiện tượng. Như nước, phân tích
thành ra Hydrô và Oxy, cái bàn thì do cây, đinh, sơn.. . hợp thành.
Dùng Trí phân tích phải trải qua nhiều giai đoạn suy luận, qua phân tích, qua
thí nghiệm, hoặc qua tưởng tượng mà nhận diện được sự vật là không có thực thể
mà do các thành phần khác tạo ra nó. Kỳ thực, trên mặt lý thuyết ta thấy cái
bàn, nước ngay trước mặt thì cái gì không thật là chúng nó?Ta chỉ tưởng tượng
rằng cái bàn, nước chỉ là giả lập vì dựa trên sự phân tích thì đúng như thế.
Phân tích sự vật là tiến trình trở về quá khứ của chủ khách. Thời gian bất khả
đắc.
2- Trí Phân Biệt. Cái nhìn từ Trí Phân Biệt qua Thời tính, ta thấy ngay
và rõ ràng tính chất của sự vật.
Thí dụ: Ở T1 (thời gian) ta thấy ông A 1
Ở T2 ta thấy ông A 2 không phải là A 1 nữa.
Nếu ta nhìn ông A từ thời điểm T 1 đến T 2 thì ông A đã biến đổi theo thời
điểm ( T 2 - T 1 ); ông A đã thêm
( T2- T1 ) tuổi rồi.
Vậy ông A 2 không thật là A 1, và A 3 không thật là ông A 2, cứ như thế tiệm
tiến thành ra huyển hoá sự vật theo thời gian.
Dùng Trí Phân Biệt thì nhìn thấy sự vật chỉ là thực tại giả lập, huyển hóa
hay tướng hoa đốm theo thời gian mà thôi. Ðó là lịch trình huyển hóa sự vật qua
Trí Phân Biệt. Phân biệt dữ kiện ở tương lai là thấy tướng giả lập của nó mà
thôi, cũng là quá trình tri nhận của chủ khách. Thời gian bất khả đắc.
3. Trí Vô Phân Biệt - (Trí Vô Phân Biệt hay Vô Thời Không): Vượt qua chủ
khách, Tánh Giác (Hư không) hay Tâm trực nhận thể không của sự vật. Tánh không
của Tánh Giác thể nhập hay đồng nhứt với thể không của sự vật, mà không qua tiền
ngũ căn.
Nhìn một vật trong không gian, thật ra nhìn ảnh của nó ở nhãn căn, tức là
thấy hiện tượng giả lập, vì phân biệt được ý thức (biết) vật đó qua cảm quan
(chủ tri). Cái biết của cảm quan thì còn sai lầm, vì nhận hình ảnh của sự vật
cho là sự vật. Còn như dùng trực giác (không do cảm quan) mà thể nhận ngay tánh
không hay thể không của sự vật chiếm cứ không gian -- thì tánh không của (Tâm)
trực giác và tánh không của vật là đồng một thể, thì có gì phân biệt nữa. Lúc đó
Tánh không (Hư không) là thiệt tánh giác vì thiệt tánh giác là Hư không.
Sở dĩ nói Thiệt Hư không là nói đến đồng thể của Tướng không của sự vật. Như
thể không của chính Trực giác, Tánh giác hay Chơn tâm hay sự vật mới thật là Hư
không.
Còn thể không của hình ảnh của sự vật trong võng mạc mà ta thấy là không thật
là ảo ảnh. Cho nên Phật đã nói, Tánh Giác là Thiệt Hư không và Hư không là Thiệt
Tánh giác là ý đó. Ðó là Tánh Toàn Giác vì Tánh Giác có nhiều bực như Tánh Giác
từng phần.. . Tánh Giác toàn diện là Tự Tính Tuyệt Ðối của Tâm, là Chơn Trí hay
Chơn Tâm vậy.
III. PHÂN TÍCH BÁT NHÃ TÂM KÍNH QUA LĂNG KÍNH THỜI KHÔNG
A. Chủ Thể Quan Sát:
Quán Tự Tại hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Ða thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai
không, độ nhất thế khổ ách.
Quán Tự Tại Bồ Tát, chủ thể quan sát, hay hành giả, trong quá trình tư duy
sâu sắc (Trí quan sát) mới thấy được ngũ uẩn đều không, nên vượt qua mọi khổ
ách.
Hành thâm: tức qua một thời gian thực hành nghiền ngẫm với Trí rộng khắp
nhiều phương diện, lúc ấy mới thấy được ngũ uẩn đều không. Không ở đây là hai
giai tầng thực tại của Tánh Không. Tánh Không thứ nhất là Tướng Không của ngũ
uẩn (dung thể Không của ngũ uẩn chiếm trong không gian) tức là Tự tính Tuyệt
đối; còn Tánh Không thứ hai là không thật là nó nữa, là thực tại giả lập do lịch
trình huyễn hóa ngũ uẩn. Cho nên suy xét kỹ thì thấy rõ mọi khổ ách (là quá khứ)
-- khi ở thể không tuyệt đối (hư không) -- không thể chạm vào hư không được dù
hiện tại hay quá khứ. Còn ở thực tại giả lập, khổ ách quá khứ thì hiện tại không
còn nữa. Sự đau khổ đã qua đi,chúng ta chỉ còn vương vấn trong ký ức và luôn lập
lại bằng ảo giác âm vang trong tâm thức màthôi. Vậy khi hành thâm Trí Bát Nhã
mới thấy thực tướng của ngũ uẩn là Tánh không, nên hiện tại không có khổ ách nào
còn vì vậy đã vượt khỏi khổ ách rồi vậy.
B. Ðối Tượng Quan Sát:
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc; Sắc tức thị Không, Không tức
thị Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị.
+ Sắc không khác Không, Không không khác Sắc :
Sắc và dung thể Không của Sắc là Một, cho nên Sắc không khác Tướng Không của
nó và Tướng Không của Sắc cũng không khác Sắc. Vì Sắc chiếm cứ không gian và
không gian dung chứa Sắc khắn khít nhau như Một, cho nên dung thể Không của Sắc
và Sắc là Một. Không nầy là Tự Tính Tuyệt Ðối.
+Sắc biến thành Không, Không biến thành Sắc:
Thí dụ: Ta nhìn Sắc ở thời điểm T1 thì qua T2 (1 sát na), ta thấy Sắc ở T1
không còn thật là Sắc ở T2 nữa. Nhưng ởT2 ta vẫn thấy Sắc ở T2 là thật, dù ở T2
xem Sắc ở T1 không thật. Chẳng hạn, ông A ở T1,qua T2 thì lập tức ô. A thêm (
T2- T1) tuổi nên ô. A T2 không phải là ô. A T1. Tuy nhiên, dù ô. A ở T1 không
thật là ô. A ở T2, nhưng ở T2 ta vẫn thấy ô. A ở T2 là thật. Ðó là lịch trình
huyễn hóa của Sắc qua Trí Phân Biệt; hay Sắc và Không có Tự Tính Tùy Thuộc (theo
Thời gian). Rồi đến Thọ, tưởng, Hành, Thức đều giống như vậy.
Theo triết lý Duy Thức, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, là tiến trình tri thức
đúng thực tướng của ngũ uẩn hay vạn pháp. Tri thức đúng chủ tri sai lầm vì chủ
thể nhận thức bóng dáng của ngũ uẩn cho là ngũ uẩn thật. Tri thức đúng chủ tri
sai lầm đó là tự giác. Ngũ uẩn mà chủ thể nhận thức sai lầm đó chỉ là ngũ uẩn
giả lập. Tri thức đúng tự tính giả lập của ngũ uẩn là giải thoát khỏi nhân duyên
chằng chịt, luân hồi, sanh diệt của ngũ uẩn, đối tượng, hay tha nhân nói chung,
tức là giác tha. Vậy tri thức đúng thực tướng của vạn pháp là con đường giải
thoát mọi ràng buộc, sai lầm, nhân duyên, luân hồi, khổ đau để đến bờgiác
ngộ Niết Bàn tịch tịnh. Ðó cũng là con đường tự giác và giác tha.
C. Ðặc Tính Các Pháp.
Xá LợI Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất
tăng bất giảm. Thị cố không trung vô Sắc, vô Thọ, Tưởng, Hành,Thức; vô Nhãn,
Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý; vô Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp; vô Nhãn GiớI, nãi
chí vô Thức Giới; Vô minh diệc Vô minh tận; nãi chí vô Lão Tữ diệc vô Lão Tử
tận; vô Khổ, Tập, Diệt, Ðạo; vô Trí diệt vô Ðắc.
a. Tự tính tuyệt đối.
Các pháp không tướng là tánh không của các pháp có đặc tính như sau : Bất
sanh bất diệt, là bản tánh cố định vì các pháp thuộc vào tự thân nó, không có tự
tính giả lập hay tùy thuộc áp đặt lên nó, nên nó chính là nó, không gì ngoài nó.
Dung thể không của vạn pháp và vạn pháp là một. Tánh Không của vạn pháp tức
nhiên không sanh không diệt; Tướng Không (dung thể Không luôn khắn khít với vạn
pháp nên không thay đổi) thì không tăng không giảm. Chất thể Không (Hư không)
thì không tốt không xấu, không thiện không ác, và không sạch không nhơ.
b. Tự tính giả lập.
Tự tính giả lập là tự tính của thực tại kiến lập tự nhiên. Khi sự vật nhìn
thấy qua nhãn căn thì chỉ nhìn thấy hình ảnh của sự vật ở võng mạc của nhãn căn
mà thôi. Hình ảnh nầy được lăng kính hội tụ ở nhãn căn từ sự vật bên ngoài không
gian. Hình ảnh ấy tăng hay giảm tùy theo khoảng cách không gian gần hay xa đối
với chủ thể. Cơ quan cảm giác của mỗi người đều khác nhau, cho nên cái thấy đó
cũng có chỗ khác nhau. Vì là hình ảnh của sự vật nên nó không thật. tự tánh giả
lập cũng là tánh không. Tánh không ở đây có hai nghĩa :
(1). Hình ảnh là thể không (không nắm bắt được, là hư không), khi hình ảnh
thay đổi thì thể không có sanh có diệt.
(2). Hình ảnh đó không thật là của sự vật, vì do giác quan con người nhận
thấy.
Tự tính gỉả lập còn gọi là Báo Thân, vì tự tánh nầy hay thay đổi theo thời
không, nên nó có sanh có diệt, có tăng có giảm.
c. Tự Tính Tùy Thuộc.
Thực tại được hình thành do nhân duyên củathọ tưởng hành thức nên có tự tính
tùy thuộc. Hình ảnh của sự vật nầy ở trong tâm thức mà tâm (Ý) trực nhận, cũng
thay đổi luôn theo nhân duyên. Thực tại được nhận thức theo quan niệm, làm cho
ta thấy chất thể của hình ảnh sự vật có màu sắc, tốt xấu, thiện ác, sạch nhơ v.
v.. . Tự tính của sự vật nầy cũng là hình ảnh của sự vật trong tâm thức tùy
thuộc nhân duyên (lục dục, thất tình), nên chất thể thay đổi theo môi trường
sạch nhơ và sanh diệt theo thời gian. Tự tánh tùy thuộc còn gọi là Hóa Thân.
Tóm lại, trong không gian (Hư không) có hai thế giới:
+ Thế giới gác ngộ, thì mọi sự vật đều có sáu đặc tướng không: không sanh
không diệt, không tăng không giảm, không sạch không nhơ. Ở tự tính tuyệt đối,
Tánh Không của sự vật : không sanh không diệt; Tướng Không sự vật: không tăng
không giảm; Chất Không sự vật : không sạch không nhơ.
+Thế giới mê vọng thì có sanh có diệt, có tăng có giảm, có sạch có nhơ. Ở tự
tính giả lập, tánh và thể của hình ảnhsự vật có sanh có diệt, có tăng có giảm
theo thời không. Ở tự tính tùy thuộc, tánh và chất của hình ảnh sự vật có sanh
có diệt, có sạch có nhơ tùy thuộc môi trường nhân duyên và thời gian.
d. Tính Vô ngã.
Do đó, trong Không hay tánh Không của ngủ uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là
tự tính Không của nó mà thôi, nên ngũ uẩn không có thực thể. Thường thì Thân ngũ
uẩn được con người tri nhận sai lầm là Cái Ngả của mình, kỳ thực, thực tướng của
ngũ uẩn là tánh không, nên ngũ uẩn vô ngã.
e. Không gian tính :
+Nhân.
Tánh không của Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân, Ý của thân xác là thể không của
cảm quan. Lục căn là căn để chủ yếu tiếp xúc đối tượng trong không gian, là
nguồn gốc, là những chủng tử, khi có điều kiện, sinh ra các cảm giác. Tánh không
của lục căn tùy thuộc vào duyên mới phát sinh cảm giác, nên chúng chỉ là tự tính
giả lập.
+Duyên.
Tánh không của Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Lục trần cũng không có thực
thể; thật sự chúng là thực tại giả lập và chúng là những yếu tố (duyên) tạo ra
cảm giác và ý thức khi kết hợp với lục căn. Lục trần tùy thuộc vào lục căn mới
phát sinh ra cảm giác. Lục trần được xem là duyên, nên chúng có tự tính tùy
thuộc.
+ Quả.
Tánh không của Nhãn giới cho tớiThức giới. Lục Thức chỉ là Ý thức do Nhân Lục
căn, Duyên Lục trần kết hợp thành Quả là Lục thức. Nhân đã không có thực thể,
Duyên cũng không có thực thể, thì Quả làm gì có thực thể. Do đó Lục thức là hiện
tượng vô thường của tánh không, của tự tínhtùy thuộc. Lục thức là sự hiểu biết
đối tượng Lục trần qua Lục căn của chủ thể, nên lục thức được tri nhận sai lầm
là Tâm. Theo đặc Tướng Không của vạn pháp, thì Tâm hay Pháp tức chủ thể hay đối
tượng đều không có thực thể. Tâm vô thường, Pháp vô Ngả.
f. Thời Gian Tính.
Tánh Không của thập nhị nhân duyên. Không có Vô Minh, không tận Vô Minh, cho
đến không có Lão và Tử, cho đến không có tận diệt Lão và Tử. Ðặc Tướng Không của
Vô Minh là tánh không, nên Vô Minh tự nó rỗng không vì nó là Tri kiến mà Tri
Kiến là một thực tại giả lập hay tùy thuộc vào nhân duyên áp đặt lên nó. Có Vô
Minh (Sanh) thì Không có Vô Minh (Diệt) là giai đoạn 1. Không có Vô Minh (Diệt
), thì Không không có Vô Minh ( Sanh), là giai đoạn 2 và cứ như thế theo thời
gian sanh, diệt, sanh v. v.. . ; Có Lão và Tử (Sanh), khôngcó Lão và Tử (Diệt),
là giai đoạn 1. Không có Lão và Tử (Diệt), Không không có Lão và Tử (Sanh), giai
đoạn 2, và cứ như thế chạy dài theo thời gian vô tận. Ðó là Biện Chứng Nụ Hoa
Quả của Hegel. Nụ tàn thì Hoa trổ, Hoa rụi thì Quả sanh. Ðó là nhị bội phủ định.
Hai lần phủ là một quyết. Ðói thì ăn. Không đói thì không ăn. Không phải không
đói mà không ăn.
Nói tóm lại, Tánh Không của Thập Nhị Nhân Duyên là Tính Không duyên khởi là
lịch trình (thời gian) huyễn hóa sự vật mà thôi.
g. Giải Kiến: Tánh Không của Tứ Diệu Ðế.
Tánh không của Khổ, Tập, Diệt, Ðạo được giải kiến bằng Thọ, Tưởng, Hành,
Thức.
Cảm thọ Khổ là quả, do Tập là Tưởng, là ký ức là nhân. Hành là Diệt là quả,
nên Thức là Ðạo là nhân. Con đường tri thức đúng của Khổ,Tập, Diệt, Ðạo là Thực
Tướng Không của Thọ, Tưởng, Hành,Thức. Tánh không của Tứ Diệu Ðế cũng được giải
kiến theo hai hướng của thực tại. Thực tại tương đối là tính không của Khổ
TậpDiệt Ðạo với Tự tính giả lập hay tùy thuộc. Còn Thực tại tuyệt đối là tánh
không của Thọ Tưởng Hành Thức với Tự tính tuyệt đối.
h. Giải Kiến: Tánh Không của Trí và Ðắc.
Chân Trí hay Chân Ðắc là thực tướng của Tri và Hành. Tri thức đúng (tự tính
tuyệt đối) là Chứng, là giác ngộ, mà giác ngộ mới thực hành đúng là Ðắc. Chứng
(Tri) và Ðắc (Hành) tự nó đầy đủ, là chân lý tối hậu, không có gì áp đặt lên nó
như dùng ngôn từ hay công ước. Như vậy Không Trí Không Ðắc được giải kiến bằng
Tướng Không (tuyệt đối) của Trí và Ðắc. Vì Trí và Ðắc là thực tại giả lập, nên
tri thức đúng thực thể của chúng tức là nắm bắt tự tính tuyệt đối của chúng.
D. Quả Ðạt Ðược.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Ðề Tát Ðỏa y Bát Nhã Ba La Mật Ða cố, Tâm vô quái ngại,
vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo, mộng tưởng, cứu cánh Niết
Bàn. Tam thế chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Ða cố, đắc A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ
Ðề. Cố tri Bát Nhã Ba La Mật Ða, thị Ðại thần chú,thị đại minh chú, thị vô
thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thực bất hư. Cố
thuyết Bát Nhã Ba La Mật Ða chú, tức thuyết chú viết :
Yết Ðế, Yết Ðế, Ba La Yết Ðế, Ba La Tăng Yết Ðế, Bồ Ðề Tát Bà Ha.
(1). Quả: Khi hành Trí Bát Nhã Cứu Cánh thì đạt được hai quả sau đây :
a). Thoát khỏi khổ ách. (Thời gian huyễn hóa sự vật) Như ngay khi chiếu kiến
ngũ uẩn giai không của Bồ Tát Quán Tự Tại thì quả là thoát mọi khổ ách.
Ngũ uẩn là thực tại kiến lập, là tánh không. Cho nên, Thọ (Sợ hải), Hành
(điên đảo), Tưởng (mộng tưởng) là tánh không hay là cái không thật có đó, nên
không có gì chướng ngại, liền vượt qua mọi sợ hãi, điên đảo, mộngtưởng. Tri thức
đúng tự tính giả lập là giải thoát mọi khổ ách, vì khổ ách không thật có. Sắc
tức thị không, và không tức thị sắc
b). Giác ngộ Niết Bàn. (vô thời không)
Chiếu kiến ngũ uẩn giai không trên bình diện tuyệt đối, tức ngũ uẩn và không
không khác, tánh không của ngũ uẩn là thể không của ngũ uẩn,là tự tính tuyệt
đối. Cho nên, thực hành Trí Bát Nhã Cứu Cánh là Tri thức đúng thực tướng (thể
không tuyệt đối) của vạn pháp, tức là con đường giải thoát đến bờ giác ngộ Niết
bàn, đến cứu cánh.
c). Chứng Minh:
Các đức Phật ba đời, cũng hành trì theo pháp Bát Nhã Cứu Cánh đều chứng quả
Vô Thượng Giác.
Phật ba đời là Phật Tánh hay Tánh Không của Tự Tính Tuyệt Ðối. Vì ba đời, là
quá khứ đã qua không thật; vị lai chưa đến cũng không thật; hiện tại không nắm
bắt được: ba thời đều bất khả đắc. Ðólà Pháp Ðẳng Không. Trong Kim Cang Tam
Muội, phẩm 23, Phật dạy :
-- Ðúng như lời Tu Bồ Ðề nói: Ðại Thừa đồng đẳng với hư không.
Như hư không không có phương hướng, chẳng phải dài vắn vuông tròn, chẳng phải
vàng đỏ trắng đen. Ðại thừa cũng như vậy.
Như hư không chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, chẳng cấu chẳng tịnh, chẳng
tăng chẳng giảm, chẳng sanh chẳng diệt, không dừng thay đổi, chẳng phải thiện
hay bất thiện, ký hay vô ký, chẳng thấy nghe hay biết v. v.. . Ðại thừa cũng lại
như vậy. Thế nên Ðaị Thừa đồng đẳng với hư không.
-- Tu Bồ Ðề! Ðúng như lời ông nói, hư không dung thọ vô lượng vô biên vô số
chúng sanh. Ðại Thừa cũng lại như vậy. Vì chúng sanh vô sở hữu. Do vì chúng sanh
vô sở hữu, hư không vô sở hữu, đại thừa vô sở hữu nên đều bất khả đắc.
Vì đến tất cả pháp đều bất khả đắc, nên đại thừa dung chứa và thọ nhận tất cả
( vô lượng vô biên vô số chúng sanh ).
Vì tất cả các pháp bất khả đắc, nên trong quá khứ hiện tại vị lai, Thanh Văn,
Bích Chi Phật, Bồ Tát và Phật đều bất khả đắc. Thế nên trong ba đời đều bình
đẳng, vì tất cả đều bất khả đắc.
-- Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát an trụ Bát Nhã Ba La Mật học tướng ba đời bình đẳng,
sẽ được nhứt thiết chủng trí.
-- Bạch Thế Tôn! Lành thay! Lành thay! Ðối với Ðại Bồ Tát đại thừa an trụ Bát
Nhã Ba La Mật :
Quá khứ chư Ðại Bồ Tát học nơi đây được Nhứt Thiết Chủng Trí.
Vị lai chư Ðại Bồ Tát học nơi đây sẽ được Nhứt Thiết Chủng Trí.
Hiện tại chư Ðại Bồ Tát trong vô lượng vô số quốc độ 10 phương cũng học được
nơi đây mà học được Nhứt Thiết Chủng Trí.
-- Bạch Thế Tôn! Nhứt Thiết Chủng Trí chính là Ðại Bồ Tát Ðại Thừa vậy.
-- Tu Bồ Ðề! Ðúng như vậy. (tr. 70- 71)
Do đó trongba đời chư Phật (dùng Phật tánh hay Tánh không), hành trì theo
phép Bát Nhã Cứu Cánh đều chứng quả Vô Thượng giác (Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh
Giác) hay Vô Thượng Bồ Ðề tức là Nhứt Thiết Chủng Trí là Trí giác tuyệt đối.
2. Tán Tụng
Thế nên biết rằng Bát Nhã Ba La Mật, chính là thần chú vĩ đại nhứt, thần chú
chiếu minh, thần chú vô thượng, thần chú đẳng không hay tuyệt đỉnh, chính là
chân lý bất vọng, có năng lực siêu phàm tiêu trừ tất cả khổ nạn.
Ðó là lời tán tụng thành quả của hành trì Trí Bát Nhã Cứu Cánh. Thần chú là
kỷ thuật, phương pháp đi vào thực tính của vạn pháp. Ðó là pháp đại thần diệu vì
nó vĩ đại, tuyệt đối tác năng vô tận. Ðại minh chú là pháp Ðại chiếu minh, giải
trừ sự tối tăm (vô minh), dứt mọi phiền não kiến chấp. Vo Thượng chú là pháp vô
thượng Bồ Ðề là chỗ giác ngộ của Phật, không còn ai hơn nữa gọi là Vô Thượng; xa
lìa tà vọng gọi là chánh,ngộ được chân lý gọi là Giác. Phật tâm Vô Thượng Giác
là phát tâm mong cầu trí giác vô thượng, quả Phật cứu cánh. Vô Ðẳng Ðẳng chú tức
là pháp đẳng không, học tướng ba đời bình đẳng (Phật ba đời) sẽ được Nhứt Thiết
Chủng trí. Hay Tâm Vô Ðẳng Ðẳng cũng là Tâm Vô Thượng bồ Ðề trên Tâm Thinh Văn,
Bích Chi Phật và tất cả mọi thứ tâm. Cho nên Trí Bát Nhã Cứu Cánh là phương pháp
diệt trừ khổ ách, bởi vì phương pháp trí cứu cánh cũng là phương pháp tri nhận
đúng chân lý, không hư dối, tức là tri nhận tự tính tuyệt đối. Trí Bát Nhã Cứu
Cánh là Tri Thức Ðúng, tức là tiến trình nhận thức đúng thực thể, nên giải thoát
mọi sự hiểu biết sai lầm ràng buộc bởi nhân duyên chằng chịt, khổ đau, luân hồi
mà đến bờ giác ngộ Niết bàn. Ðó là kỷ thuật hay phương pháp thiết thực như hành
trì các pháp (thần chú) như pháp tuyệt đối vĩ đại, pháp chiếu minh, pháp vô
thượng, pháp đẳng không, chắc chắn sẽ giác ngộ Niết bàn như hành trìTrí Bát Nhã
Cứu Cánh vậy.
E. Kết Luận.
Phật liền đọc (nói): Yết Ðế, Yết Ðế, Ba La Yết Ðế, Ba La Tăng Yết Ðế, Bồ Ðề
Tát Bà Ha, là chấm dứt ngay mọi vọng tưởng, đạt cứu cánh niết bàn.
Thật ra nói đến thần chú -- dù có nghĩa là kỷ thuật hay phương pháp -- thần
chú là mật ngữ không cần biết tới nghĩa của nó.
Khi hành giả đọc thần chú, hành giả (chủ thể) nghe (biết) tiếng thần chú (đối
tượng). Nghe là năng tri, thần chú là sở tri. Còn chủ tri và khách thể là còn
nhị nguyên, đối đãi, nhân duyên chằng chịt. Như đã trình bày ở phần trước theo
quan điểm duy thức, là Tri Thức đúng cái tri thức sai lầm đó (chủ thể cảm giác
và đối tượng giả lập ) là quá trình giải thoát mọi vọng tưởng điên đảo, đạt được
cứu cánh niết bàn.
Vậy khi hành giả đọc câu thần chú xong thì năng sở song vong có nghĩa là khi
đọc thần chú tức là chủ thể đọc (nghe), thần chú (đối tượng), hành giả ngay đó
Biết được mình đang nghe âm thanh đọc. Bởi vì Biết được là trực giác (do tâm,
chứ không do cảm quan của chủ thể tri thức) được âm thanh đó. Năng tri (đọc:
phát ra âm thanh của chữ) là nghe âm thanh của thần chú là do căn tai. Câu thần
chú là tiếng được nghe (sở tri), nó là thực tại giả lập. Cho nên dùng trực giác
(tâm) nhận thức ngay thể không của chủ tri và sở tri, tức là biến nhị nguyên
(chủ khách) thành nhứt nguyên (chủ khách đều không). Ðó là tri thức đúng thực
tướng của tâm và vật.
Nói rõ hơn là khi hành giả đọc câu chú, ngay đó nhận Biết đang nghe âm thanh
đọc mà thôi. Vì lẻ, khi đọc dùng tánh nghe của căn tai (cảm giác) chuyển cho
trực giác từ tánh nghe đó mà thể nhận nơi thể không của của tiếng đọc thần chú
được nghe thành âm thanh. Do đó nghe đọc thần chú, nhận Biết ngay đang nghe âm
thanh đọc mà thôi.
Dù thần chú có nghĩa là -- Vượt qua, vượt qua, đến bờ bên kia một cách nhanh
chóng -- nhưng hành giả chỉ cần thể nhận nơi thực tướng (âm thanh đọc) mà không
cần biết ý nghĩa của thần chú là ngôn ngữ giả lập.
Vậy khi đọc câu thần chú xong, ngay đó nhận biết tánh nghe mà thôi, đó là đạt
được Giác Ngộ viên mãn.
Nên nhớ rằng, Giác Ngộ nầy chỉ trong khoảnh khắc Tĩnh Giác, là Trực Tâm, nên
phải tiếp tục để được Thâm Tâm chí đến Bồ Ðề Tâm mới gọi là Giác Ngộ Niết Bàn.
Vài thí dụ về thực hành Trí Bát Nhã Cứu Cánh. Ðó là,
Tri thức đúng cái Tri Thức sai lầm của chủ khách:
-- Ðọc thần chú là Biết cái đang đọc thành tiếng; hay Biết đang nghe tiếng
đọc (chỉ nghe âm thanh, không cần hiểu nghĩa thần chú).
-- Biết (Tâm) Cái mình biết (Năng Sở).
-- Nhìn vào trong (thể không của sự vật), như Trực tâm là Tâm trực nhận nơi
thể không của sự vật.
-- Hoặc giả, thực hiện Chân Trí ngay nơi đối tượng hiện quán v. v (Giải lý
chi tiết ở phần Thắp Sáng Hiện Hữu)
-ooOoo-