THỰC TẠI & CHÍ ÐẠO
Tác Giả: Phổ Nguyệt
Xuất Bản Năm 2002
|
PHẦN I
CHƯƠNG NĂM
KINH NGHIỆM SỐNG CHẾT
I. TỬ THƯ TÂY TẠNG
(Padma Sambhava, tr. 30- 58)
1). Lời Tựa của Latma Anagarika Govinda:
... Người nào có đức tin vào nền siêu hình học
Phật Giáo, thì thấy rằng Sinh và Tử chẳng phải là những hiện tượng duy nhất của
sự Sống và sự Chết, mà chúng can thiệp vào chúng ta một cách liên tục không
ngừng. Trong từng khoảnh khắc, trong chúng ta có cái gì đó chết đi và cái gì đó
sinh ra. Các Bardos khác nhau chỉ là những Trạng thái tâm thức khác nhau của đời
sống chúng ta: Trạng thái thức, Trạng thái mộng, Trạng thái hấp hối, Trạng thái
chết và Trạng thái tái sinh.
Tất cả những điều trên đây được mô tả rõ ràng trong những câu thơ căn bản của
Sáu Bardos (Bardo- rman druy- rtsatsig), chúng là cốt lõi đầu tiên của tác phẩm
Bardo Thodol. Ðiều đó chứng tỏ rằng ở đây chúng ta đang đối diện với chân lý của
Sự Sống, chứ không phải một bài hướng dẫn của về Cái Chết, hay là một khóa lễ
dành cho những người chết, như người ta vẫn tưởng lầm, do sự biến dạng và thoái
hóa sau nầy của tác phẩm.
Ðây không phải là một tài liệu hướng dẫn những Người chết mà hướng dẫn tất cả
những ai muốn vượt qua Cái Chết thành một hành động giải thoát. Bởi lẽ khi chết
chúng ta cũng trải qua những bước tuần tự của Thiền định. Plutarque đã từng nói:
- Ngay lúc chết, Tâm thức của con người lọt vào những Trạng thái huyền bí,
giống như Trạng thái của những vị Ðạo đồ cao cấp.
Do sự tự động cắt đứt khỏi lớp vỏ thể xác, cùng với tất cả những ham muốn và
ngăn ngại của Tâm thức nông cạn, Cái Chết rõ ràng đưa đến cho chúng ta một cơ
hội hi hữu để đặc biệt giải phóng chúng ta ra khỏi sự ràng buộc của những bản
năng tối tăm, và hé mở cho chúng ta nhìn thấy thấp thoáng ánh sáng giải thoát,
dù rằng chỉ trong chốc lát. Người nào có thể gắn bó được với khoảnh khắc ấy và
giữ mình được ngang tầm với sự hiểu biết ấy, thì sẽ tham dự vào cuộc giải thoát.
Ngược lại kẻ nào yếu đuối, bị rơi rớt do không thể giữ mình ở ngang tầm ấy, sẽ
gặp ít nhiều khó khăn khi trở lại vòng Luân hồi sanh tử.
Chỉ những ai đã có sự chuẩn bị cả cuộc đời mình mới có thể đối diện vững vàng
với khoảnh khắc mãnh liệt ấy. Chính vì vậy mà chúng ta hiểu vì sao trong các
cuộc Ðiểm đạo của những Tông Huyền Môn lớn thời cổ đại, cũng như trong những nền
văn hóa xa xưa hơn, đều có nghi thức về Cái chết tượng trưng cho người được điểm
đạo. Padma Sambhava cũng đã dùng đến những nghi thức nầy, trong câu thơ căn bản
cuối cùng ông lưu ý chúng ta rằng:
- Trong ý nghĩa về Cái chết sắp đến, thì điều chính yếu không phải là muốn từ
bỏ các quyền lợi vô nghĩa của sự tham sống, mà chủ yếu là sự hiến dâng mình cho
Phật pháp, chừng nào mà sự sống còn cho phép chúng ta làm điều ấy.
Nhằm mục đích này chúng ta phải làm sao cho sinh hoạt cuộc sống hàng ngày,
trong đó bao gồm cả Sự chết, không phải như sinh hoạt chán đời, mà coi đó như là
một phần không thể tách rời và rất cần thiết của đời sống. Muốn thâm nhập vào
lĩnh vực kinh nghiệm này, không cần phải có những quan điểm bệnh hoạn, bi quan
(việc này thuộc về một thế giới khác và phục vụ những mục đích hoàn toàn khác),
mà cái chủ yếu là cần đi sâu vào Cốt tủy của Bản thể, nơi đó chúng ta gặp Sự
sống và Cái chết không tách rời nhau.
2. Lời Giới Thiệu của Nữ Dịch Giả Eva K. Dargyay
KINH NGHIỆM VỀ CÁI CHẾT TRONG CÁC TRUYỀN THỐNG HUYỀN MÔN
Trong hầu hết các nền văn hóa của nhân loại, Cái Chết luôn luôn là một kinh
nghiệm hãi hùng, dễ sợ, nó gợi lên sự duy tư về ý nghĩa của cuộc đời, về những
nguyên nhân dẫn đến sự thử thách đó và hành động bức bách khiến Cái chết trở nên
không thể tránh được. Ngay từ những buổi đầu tiên của nhân loại, người ta đã tìm
kiếm ý nghĩa của mối lo sợ hãi hùng đó và gán cho Cái chết nhiều điều khó hiểu
cùng những hình ảnh huyền bí. Chúng ta chưa từng thấy có một nền văn hóa nào mà
đã không tìm cách giải bài toán bí hiểm của Cái chết. Tất cả các nền văn hóa ấy
đều truyền lại cho chúng ta những hình ảnh giống hệt nhau về căn bản.
Từ lúc khởi thủy, khi con người hoàn toàn hãy còn là một -- không tách rời
đấng thiêng liêng -- lúc ấy con ngườI chưa từng biết đến Cái chết. Con người chỉ
chịu đựng Cái chết sau khi tách rời khỏi đẳng cấp Thần linh và bị rơi rớt xuống
đẳng cấp thấp hơn.
Trạng thái đầu tiên của con người là Trạng thái phúc lạc (ở cõi Thiên đường).
Con người lúc ấy sống trong cõi Ðịa Ðàng (Eden). Không biết đến lòng ham muốn,
sự thù ghét và hòa hợp đồng nhất với tất cả chúng sinh, sống hạnh phúc trong sự
chiêm ngưỡng bản thể chân thật. Những nền văn hóa cổ xưa hơn nữađã nhìn thấy
Trạng thái khởi thủy của con người một cách cụ thể hơn: Trái cây đủ loại sẵn có
dồi dào, muốn ăn chỉ cần hái. Con người lúc ấy xa lạ vớI các sự đấu tranh và thù
nghịch. Tuy nhiên, dù ở trong Trạng thái phúc lạc, cuộc sống khởi thủy của con
người vẫn mang dấu vết của sự bất động và trường cửu, không có một sự sáng tạo
nào. Vì vậy Cái chết xuất hiện với ý nghĩa sâu sắc của nó, như là một hệ quả cần
thiết trong sự cứng nhắc, thiếu sinh động của Trạng thái phúc lạc khởi thủy. Ðể
có thể phát triển và tiến hóa con người cần phải chết đi, cũng như sau này tất
cả các vị thánh, các nhà huyền môn, các Chamanists và các bậc Thầy tâm linh đều
phải chết. Thần chết có cái đầu của Janus vừa nhìn vào Thế gian, vừa nhìn vào
cõi bên kia, nhưng nó cũng là cái ngưỡng cửa, nơi đây lẫn lộn buồn và vui, bất
động và linh động.
Từ những thời xa xưa nhất, vấn đề Cái chết đã chiếm một vị trí ưu tiên trong
sự suy nghĩ của con người. Ngày nay thời đại chúng ta cũng không thể tách rời
được vấn đề Cái chết, nó theo bức bách chúng ta hàng ngày. Mỗi buổi tối nó
thường đập vào Tâm thức chúng ta thông qua cái ăngten tivi. Chưa có thời đại nào
mà Cái chết được cảm nhận với một qui mô đồng đều như thời đại chúng ta. Ngày
nay, đối với nhiều người, Cái chết thường chỉ có ý nghĩa là sự chấm dứt phi lý
của một cuộc sống vô nghĩa. Cái chết chỉ còn là cái lưỡi hái tối tăm đến cướp
sinh mạng của chúng ta đi.
Ở phương Tây, khi chúng ta bắt đầu phủ nhận tất cả ý nghĩa tôn giáo và huyền
bí của Cái chết, thì chỉ trong vòng vài thế kỷ, đời sống con người đã hoàn toàn
bị lột bỏ tất cả ý nghĩa thiêng liêng của nó. Ngày nay chúng ta không còn có thể
xác định được ý nghĩa của Cái chết, chúng ta chỉ thấy đó là sự chấm dứt hoạt
động của một số chức năng dinh dưỡng. Cái chết đã trở thành một Trạng thái sinh
lý. Nhưng ý tưởng đó không thỏa mãn được chúng ta và chúng ta cố gắng không nhìn
tận mặt Cái chết. Chúng ta nhốt những người bệnh và người sắp chết vào những căn
phòng trơ trụi, đầy những dụng cụ máy móc, tách biệt hẳn sự có mặt của con
người. Chúng ta không muốn bận tâm gì nữa với Cái chết. Chúng ta muốn liệm người
chết vào cái áo quan và đem ra nghĩa địa. Chúng ta muốn gạt Cái chết ra khỏi con
đường đi của mình và nói một cách đơn giản hơn là muốn quên nó đi.
Cách giải thích Cái chết theo ý nghĩa của trạng thái sinh lý học được người
phương Tây chấp nhận như ngày nay, không thể giúp chúng ta hiểu được sách Barđo
Thodol, một quyển đã trở nên nổi tiếng với cái tên Sách Tây Tạng về người chết.
Tuy nhiên ở phương Tây cũng bắt đầu xuất hiên một vài quan niệm rộng rãi hơn,
cho phép người ta tiến tới tìm hiểu về Cái chết rõ ràng hơn. Tôi muốn nói đến
của vị bác sĩ người Mỹ tên là Mởody, có đề cập đến một số nhân chứng về Cái
chết. Raymond A. Mởody, trong quyển sách Ðời sống tiếp theo đời sống (New York,
1975) đã phỏng vấn nhiều bệnh nhân được xem như là đã trải qua Cái chết trên
giường bệnh, vì tim họ đã ngừng đập trong nhiều phút và máy đo dòng diện não đã
không còn ghi nhận một tín hiệu nào cả.
Bác sĩ Mởody đã tập hợp được một trăm năm chục người bệnh làm nhân chứng, và
lạ thay, những kinh nghiệm của họ đều giống hệt nhau: Người chết nghe giọng nói
của bác sĩ tuyên bố rằng mình đã chết. Kèm theo những tiếng ầm ì khá to, người
ấy cảm thấy mình chui qua một đường hầm tối tăm, chật hẹp và đi ra khỏi thể xác
của mình, mặc dù họ còn cảm nhận có một thể xác nhẹ nhàng, phi vật chất, từ đó
họ có thể quan sát tất cả những gì diễn ra xung quanh cái xác chết của mình. Rồi
có những vật thể phi vật chất cũng giống như người chết, đến đón rước họ, tràn
ngập tình thương và sự hòa hợp, trong một thứ ánh sáng chói lọi siêu nhiên.
Trong nháy mắt, người chết thấy lại toàn bộ những hành động trong cuộc đời mình;
và mặc dù có sự bảo hộ của Tình thương và sự Yên tĩnh giữ họ lại, người chết vẫn
bị thúc đẩy bởi ý muốn trở lại trong thân xác mình. Kết thúc về kinh nghiệm về
Cái chết là một cảm giác còn non nớt, chưa thông suốt rõ ràng đối với cõi bên
kia.
Những nhân chứng trên đây có nguồn gốc từ những người thuộc đủ tầng lớp của
xã hội Mỹ vào cuối thế kỷ thứ 20 thật hoàn toàn phù hợp một cách kỳ lạ với những
gì đã được nói đến trong quyển Sách Tây Tạng về người chết. Mỗi một hiện tượng
đã được trình bày đều tìm thấy trong sách này. Ðể làm rõ nền tảng tôn giáo của
quyển Sách Tây Tạng về người chết, tôi đề nghị độc giả hãy nhìn trở lại những tư
tưởng của tổ tiên chúng ta, để thấy được các vị Tiền bối hiểu biết về Cái chết
như thế nào. Ngành khảo cổ học không thể giúp chúng ta hiểu biết những gì mà nền
văn hóa cổ xưa đã suy nghĩ như thế nào về Cái chết. Những huyền thoại, những
chuyện cổ tích về Cái chết, có thể cung cấp dữ kiện cho chúng ta, giống như
chúng ta truyền lại một câu chuyện kể đến một thời gian nào đó. Chúng ta tìm
thấy lại các huyền thoại ấy, đầy tính chân thật và trong những giòng chữ của
chúng chứa đựng những giấc mơ muôn thuở của nhân loại. Những giấc mơ ấy không
phải là những bong bóng xà phòng như một câu phương ngôn đã nói với chúng ta, mà
thực ra chúng chứa đựng cái nhìn sâu xa nhất về bản thể của chúng ta. Thật không
phải là một chuyện vô ích đối với những điều mà các nhà phân tâm học đã làm, khi
họ dùng những giấc mơ để chữa bịnh tâm thần cho con người.
Tất cả huyền thoại của nhân loại đều xem Cái chết như một sự kiện đặc biệt
không thuộc về thế giới tự nhiên. Cái chết không phải là sự cần thiết vốn có của
tự nhiên. Nó chỉ có thể được hiểu như là một sự thoái hóa hay đảo ngược bản chất
tự nhiên của con người. Vì vậy một vài huyền thoại so sánh việc Cái chết đến như
là một hành động không vâng lời: Con người không vâng theo mệnh lệnh của Thượng
Ðế. Phần lớn các trường hợp, chính sự tò mò khác đã đẩy con người vi phạm mệnh
lệnh. Mộy vài huyền thoại khác xem Cái chết như hệ quả của một hành động cực kỳ
đáng ghét, hành động của một kẻ điên rồ. Chúng ta tìm thấy những huyền thoại
dạng này ở những dân tộc cổ xưa tại Châu Úc, trung tâm Châu Á, vùng Siberia và
miền Bắc nước Mỹ. Một số huyền thoại khác xem Cái chết như một sự nhầm lẫn của
tạo hóa: Chiếc hộp (đựng Cái thiện, Cái ác) của nàng Pandore được mở ra một cách
vô ý, Sứ giả thông báo Sự bất tử cho loài người đã đến quá chậm và Sứ giả thông
báo Cái chết đã đến trước tiên với loài người. Các huyền thoại này thường gặp ở
Châu Phi.
Trong quyển Sách Tây Tạng về người chết tức Bardo Thodol, cái chết xuất hiện
trước hết là do những hành động mà người đang chết phải chịu trách nhiệm: NgườI
ta gọi toàn bộ những hành động ấy là Karma (Nghiệp). Giờ đây, chúng ta ghi nhận
rằng theo trong Bardo Thodol, Cái chết xuất hiện kiên quan với hành động của
chúng ta. Vậy thì Cái chết đến là không phải do lỗi các vị Thần (Thoái hóa, nhầm
lẫn) mà chính là do sự sai lầm của con người.
Ngoài lập luận trên đây, chúng ta còn tìm thấy trong cốt lõi của Bardo Thodol
một điều mà các huyền thoại đã từng nhắc đến: Ðó là con người thực sự được che
chở bao bọc trong lòng của Thần linh đày ánh sáng, nơi đó con người đươc dự phần
vào Chân lý tự tại, chính nhờ vào bản chất tâm linh của mình. Bardo Thodol không
cho rằng con người bị rơi rớt từ Thiên dàng nguyên thủy do một hành động huyền
thoại chống đối hay ngu ngốc. Ngược lại, nó phát triển cả một quá trình siêu
hình của tư tưởng, trong đó Bản chất Tâm linh Ánh sáng của Con người là một cái
gì đó không thể cầm nắm được, yên lặng và sáng rực; nó vang lên trong Tâm của
mỗi người khi mà tất cả mối suy tưởng của chúng ta đều bị cắt đứt, tất cả mọi
ham muốn, tất cả mọi mối quan hệ của chúng ta với mọi vật đều chấm dứt. Ðó chính
là Tâm Thanh Tịnh. Trong văn bản chúng tôi gọi nó là trần truị. Bản chất Tâm
Linh Ánh sáng đó không thể cầm nắm hay diễn tả được, nó có thể được chứng nghiệm
đột biến trong cơn Thiền định sâu sắc, sau một quá trình tu tập và phát triển
tâm linh lâu dài. Cái Bản chất Tâm linh Ánh sáng ấy là bản chất vốn có của con
người. Thông qua nó, con người trong tinh hoa của mình được hợp nhất với tất cả
chư Phật, với tất cả chúng sinh. Cái đó gọi là Phật tính hay mầm của Như Lai
(Tathagata).
Cảnh thiên đàng mà các huyền thoại xác định vào thời kỳ buổi đầu của lịch sử
nhân loại, trong Bardo Thodol được xem như là phẩm chất đầu tiên của bản thể con
người, như nền tảng siêu hình của con người. Trong các huyền thoại con người bị
mất Thiên Ðàng là do sự bướng bỉnh (không vâng lời Thượng Ðế) và sự ngu ngốc của
mình. Trong văn bản của chúng tôi, Bản chất Tâm linh Ánh sáng bị mờ tối và bị
rơi rớt khi con người, do nhu cầu vô hạn về sự gặp gỡ, bắt đầu đi lang thang
trong thế giới hiện tượng và bắt đầu chia rẽ cái bản thể vốn không phân chia,
thành ra Ta và Người. Vì vậy mà mọi vật chỉ tồn tại trong ảo tưởng của con
người, cuối cùng con người thất vọng vì mọi vật chỉ tạm bợ, không lâu dài, cũng
không vĩnh cữu. Ðó là nguồn gốc của mọi sự phiền não, tương đương với việc con
người bị đuổi ra khỏi Thiên Ðàng trong các chuyện thần thoại. Sự phiền não (Khổ)
không phải đến từ bên ngoài và xâm chiếm con người. Nó nằm ngay trong sự tham
lam vô độ của con người, không bao giờ cảm thấy thỏa mãn. Trong Bardo Thodol,
cái Tâm của con người là cái Trục (đòn bẩy) để đoạt lại Thiên Ðàng.
Trước hết chúng ta hãy xem việc đoạt lại Thiên Ðàng trong các chuyện huyền
thoại diễn ra như thế nào. Nó diễn tả theo chiều hướng trái ngược hoàn toàn vớI
việc Ðánh mất Thiên đàng; nếu như Sự không vâng lời đã gây ra việc đánh mất
Thiên đàng, thì việc vâng lời sẽ cho phép tìm lại được Thiên đàng. Việc đánh mất
Thiên đàng kéo theo sự phân chia giữa trời và đất, vì vậy vị Chamane (Tinh linh
siêu nhiên) dùng sợi dây Tâm linh của Cây đời, hay một cái thang của Trời để
trèo lên Thiên đường, thế giới của các tổ tiên.
Dĩ nhiên là không phải ai cũng có thể tìm lại Thiên đàng đã mất. Con đường
này chỉ mở ra cho các bậc thầy tâm linh và các vị anh hùng. Thiên đường là nơi
trú ngụ tối ưu của các tổ tiên và ngày nay họ vẫn còn ở đó; vì xưa kia, trước
khi xảy ra sự rơi rớt, họ đã từng dạo chơi trên đó. Từ ấy, chỉ những kẻ nào đã
di qua bằng kinh nghiệm, trải qua một quá trình biến đổi hoàn toàn, xuyên qua
Cái chết hay xuyên qua những trạng thái gần như xuất thần và thông qua Thiền
định mớI có thể lọt vào trong đó được.
Vào lúc chết, người Aryen cổ xưa ở Ấn Ðộ, nhờ vào những bài thánh ca Vệ Ðà,
mà lên được cõi giới của Ánh sáng trăng, nơi đây họ được các tổ tiên đón tiếp
vào Sự vĩnh cữu bất biến. Ở đây các chuyện huyền thoại đã cho thấy giờ chết có
một ý nghĩa sâu sắc đến mức độ nào. Chỉ có Cái chết mới có thể chuyển hóa được
con người, chỉ có Cái chết mới đem được con người trở lại Thiên đường nguyên
thủy.
Quyển Bardo Thodol cũng như các huyền thoại, quan niệm rằng trong toàn bộ
cuộc đờI chỉ có gìờ chết là khoảnh khắc không gì so sánh được. Nhưng Văn bản của
chúng tôi không tin rằng có thể tìm lại được Thiên Ðàng xưa nhờ những bài thánh
ca, mà chính nhờ thấy rõ những mối quan hệ cơ bản của thế gian, nhờ sự bộc lộ
bản chất thật của Tâm con người.
Cuối cùng, chúng ta hãy quan sát một trong những đặc điểm của cái Thiên đường
được tìm thấy lại:
Nó tràn ngập Ánh sáng chói lọi, nó bừng sáng, lóe lên và làm lóa mắt. Ngay
lúc mà bản chất tâm linh của con người được tràn ngập bởi Ánh sáng này, thì bản
thân nó cũng trở thành thứ Ánh sáng đó. Quan điểm này được phổ biến sâu rộng
trong những người theo giáo phái Ngộ Ðạo, những người Nhị nguyên, ở Ấn độ cổ
xưa, ở vùng Ðông Nam và ở trung tâm Châu Á. Chúng ta cũng tìm thấy những tư liệu
tương tự ở những người theo Ðạo Lão và thậm chí ở Nam Mỹ, trong những bộ lạc da
đỏ. Các chuyện huyền thoại đều gọi Thiên đường nguyên thủy đó là Mặt Trăng, hay
Mặt Trời. Ðôi khi Thiên đường này ở phía bên kia của Trái đất, trong một vùng
Ánh sáng siêu thế gian.
Chúng ta tìm thấy cõi Thiên đường đặc trưng bởi Ánh sáng không những trong
các chuyện huyền thoại mà cả trong những Văn bản huyền bí của những nền văn hóa
khác nhau. Tất cả đều nói về sự chứng nghiệm một luồng Ánh sáng xuất hiện bất
ngờ. Chúng tôi nghe nhiều nhân chứng kể rằng gương mặt của vài người lóe sáng
lên trong những trường hợp đặc biệt. Những mặt nạ bằng vàng đặt lên những người
chết ở Mycênes chẳng hạn, có lẻ tượng trưng những gương mặt chiếu sáng ấy,bởi vì
người chết khi bước vào cõi giới của Ánh sáng thì chính anh ta cũng trở thành
vĩnh viễn của Ánh sáng ấy.
Trong quyển Bardo Thodol, ngay từ những trang đầu, chúng ta đã gặp thứ Ánh
sáng ấy, gọi là Ánh sáng cơ bản (chìi cussel), nó chính là Thực tại của Bản chất
Tâm linh. Bản chất Tâm linh nàyđồng thời là một bộ phận của Ðức Phật và của Ánh
sáng. Chính vì vậy mà các Ðức Phật thường xuyên hiện ra trong những vòng có màu
sắc quang phổ của cầu vồng và trộn lẫn với Ánh sáng của Bản chất Tâm linh, như
trong văn bản của chúng tôi nói: Hai thứ đó chỉ là một. Sự thể hiện của Ánh sáng
Tâm linh đó đã thấy có trong các Văn bản của Tạng kinh Pali, thí dụ trong kinh
Aguttara- Nikaya (A Hàm) gọi tư tưởng là Ánh sáng. Trong kinh nhắc đi nhắc lại
rằng Tư duy thanh tịnh thoát khỏi vô minh có thể so sánh với vàng ròng. Trong
các kinh Ðại Thừa, ý tưởng này cũng được phát triển: Trong các kinh Lăng Già
(Lankavatarasutras) tất cả các chúng sanh nằm trong bản chất của Phật đều được
định nghĩa bằng Ánh sáng. Trong các kinh Bát Nhã (Pra japaramita) có những đoạn
nói cái Không tư duy là Ánh sáng. Từ đó trực tiếp chỉ ra con đường dẫn đến các
biểu hiện mà chúng ta tìm thấy trong Văn bản của chúng tôi, cụ thể là khi nào
Tâm trí tự tại thì nó thấy được Ánh sáng cơ bản. Nói về toàn bộ quan điểm Ánh
sáng ở đây sẽ dẫn chúng ta đi quá xa. Chúng tôi chỉ muốn trình bày rằng quan
điểm cơ bản của Bardo Thodol không nhất thiết phải gắn liền với những truyền
thống tâm linh ngoài đạo Phật.
Văn bản của Sách Tây Tạng về người chết có một bối cảnh được dệt nên bởi các
chuyện huyền thoại Ấn Ðộ và do đó nó truyền lại cho chúng ta một loạt những
chuyện biểu hiện tôn giáo huyền thoại rất quan trọng. Các chuyện huyền thoại của
Ấn Ðộ luôn luôn có cái song song của chúng trong hầu hết cái truyền thống văn
hóa, do đó Sách về người chết dựa trên nền tảng vững chắc của một hình ảnh huyền
thoại được phổ thông lưu truyền trên thế giới. Tuy nhiên cũng cần phải nhấn mạnh
rằng các chuyện huyền thoại này không phải là những chuyện lịch sử khó hiểu, mà
đó là hìng ảnh của con người về chính mình, như chúng ta đã hiểu được trong suốt
lịch sử mấy ngàn năm.
Ẩn dụ huyền thoại nổi bật nhất trong Bardo Thodol có lẽ là Tòa án của thần
chết:
Yama, thần của Cái chết (Diêm vương) ngự trên ghế quan tòa xử án những người
chết. Hai vị thần là, hai phần linh hồn người chết đem trình lên Yama tất cả
hành động của người chết dưới hình thức những hòn đá trắng và đen. Ðể biết được
thực chất của người chết, Diêm vương nhìn vào một tấm gương. Trong những cảnh
của Tòa án Diêm vương điện xuất hiện những kinh nghiệm của con người đã gây nên
sự sợ hãi và lo lắng. Nhiều nền văn hóa cổ xưa cho thấy thế giới cuả các vị Thần
và các Tinh linh cũng được cấu tạo theo những mối quan hệ giống như ở thế gian.
Ở Ấn Ðộ, vị Maitrayaniyopanisad trong sách về luật của Manus nói về Tòa án Diêm
vương giống như trong chuyện Odyssée của phương Tây và cuối cùng là nền văn học
Do Thái- Kitô giáo nghiên cứu số phận con người sau khi chết..
Cảnh tòa án trên hơi giống cảnh trong quyển Sách về ngườI chết Ai Cập, tuy
nhiên cảnh trong sách này có một mục đích hoàn toàn khác. Nếu ta so sánh cảnh
khác cũng trong sách này, ta thấy nó không được xây dựng có hệ thống được phát
triển đầy đủ, mà nó chỉ được nhắc qua một cách ngắn gọn để làm thí dụ, chẳng hạn
như cảnh những người đày tớ què, cảnh sương mù, tiếng la hét và những hình ảnh
sợ hãi cuộc sống của ngườI chết. Trong cuốn sách của Poucha cũng nói rằng nhiều
biểu tượng khác nhau được sử dụng để mô tả trạng thái sau khi chết.
Sách Tây Tạng về người chết cũng sử dụng những hình ảnh huyền thoại căn bản
ấy. Bardo Thodol dùng các hình ảnh huyền thoại của Thần chết dưới dạng một Quan
tòa, hay hình ảnh về những cảnh địa ngục chẳng hạn, là cách tốt nhất để giúp con
người tiếp cận với bản chất thật của mình:
-- Hãy nhận biết tất cả những cảm giác mà con cho là những vật có thật, hãy
coi đó là những hình ảnh thực tại tâm linh của chính con.
Bardo Thodol trước hết hướng về những người thường nghĩ và sống theo những
hình ảnh huyền thoại nói trên, áp dụng vào giáo lý mà con người thường cầu khẩn
như cầu khẩn chính chân lý và lúc chết. Chúng ta vẫn không tránh được ý nghĩ
thắc mắc tự hỏi rằng Sách Tây Tạng về người chết là gì? Trước khi tìm cách giải
đáp câu hỏi này, tôi muốn giới thiệu một Nguồn khác, nó tạo cho cuốn Sách Tây
Tạng về người chết có một giá trị to lớn như những tư tưởng triết học và tôn
giáo.
Quan Niệm Về Kiếp Sống Trong Phật Giáo Các kinh Pali có nhắc đến những đoạn
đối thoại trong đó đức Phật Thích Ca Mâu Ni, vị Phật trong thế giới chúng ta,
hỏi các đồ đệ rằng : thế giới sinh vật nơi thử thách các giác quan của con
người, đã được tạo ra như thế nào.
Thế giới của gíác quan khi ấy được phân ra làm năm thành phần :- Sắc (hình
tướng),- Thọ (cảm giác),- Tưởng (quan niệm),- Hành (xúc cảm),- Thức (nhận thức).
Lúc ấy Phật hỏi các tu sĩ :
- Này các tu sĩ, các ông nghĩ như thế nào, hình tướng là trường tồn hay vô
thường?
- Bạch Phật, là vô thường.
- Vậy cái gì là vô thường, cái khổ hay cái vui?
- Bạch Phật, cái khổ!
- Cái vô thường, đầy phiền não và bị biến đổi có thể suy là cái đó thuộc về
ta, là chính ta, chính bản thể của ta hay không?
- Bạch Phật, không!
Những câu vấn đáp nầy cũng được áp dụng bốn thành phần còn lại, tùy theo đặc
trưng của chúng, như vậy toàn bộ kinh nghiệm cảm giác được mô tả là vô thường và
như vậy nó không thể mảy may đạt đến bản chất thực tại tự do và bất hoại (bất
diệt).
Các nhà triết học Phật giáo đã nỗ lực tìm hiểu sâu rộng hơn về hiện tượng của
tính vô thường phổ quát. Cuối cùng họ đã đi đến một quan niệm là không những mọi
vật đều rõ ràng có sự kết thúc mà chẳng lúc nào tự mình tồn tại biệt lập. Hình
ảnh các đồ vật tồn tại trong một vài ngày hay trong vài năm, xuất hiện với chúng
ta giống y như một cuốn phim. Trong vài đơn vị thời gian ngắn ngủi đồ vật biến
đổi kiếp sống thoáng qua của nó với một tốc độ chóng mặt, không thể nghĩ bàn,
trong đó nếp sống nầy nối theo kiếp sống khác, thỉnh thoảng có xảy ra một biến
đổi nhẹ nhàng nhìn thấy được. Giáo lý nầy, đặc biệt được truyền lại bởi tông
phái Savastivadius đã phát triển trên toàn miền Bắc Ấn Ðộ từ những thế kỷ đầu
sau công nguyên.
Nếu như kiếp sống của mỗi đồ vật biến tan đi trong một chuổi dài nối tiếp
thành những giai đoạn bất tận, chúng ta phải tự hỏi, cái gì xảy ra đối với người
chết khi mà tính vô thường đã rõ ràng áp đặt đối với tất cả mọi người.
Cũng giống như tất cả các hệ thống tư tưởng với ảnh hưởng đa số dân chúng ở
Ấn Ðộ, Phật giáo luôn luôn công nhận rằng cuộc sống không phải chỉ giới hạn ở
một lần sinh, mà kiếp người giống như một chuỗi dài gồm những giai đoạn đi từ
cái chết đến một sự tái sinh mới. Ðó là đề tài của câu chuyện Thế Thân Bồ Tát
(Vasubandhu) trong cuốn Abhi- dharmakosa, ở thế kỷ thứ IV hoặc thứ V sau công
nguyên.
Trong chương ba cuốn sách nầy có viết :
- Nếu chỉ mô tả đơn giản Ngũ Uẩn với tên gọi của chúng, có nghĩa là người ta
không phủ nhận sự tồn tại của chúng. Nhưng như vậy có phải là người ta chấp nhận
Ngũ Uẩn chuyển từ thế giới nầy sang thế giới khác không? Các Uẩn biến mất từng
giây từng phút. Do vậy chúng không thể chuyển động được. Tuy nhiên chúng vẫn
chui vào bụng mẹ, xuyên qua dòng chảy của các Trạng Thái Trung Gian (Bardo),
chịu ảnh hưởng nặng nề của các hành động trong quá khứ. Cũng giống như Ánh sáng,
mặc dù nó biến đi trong từng lúc, nhưng sự luân lưu trong lúc ấy sẽ di chuyển
đến một nơi khác. Các Uẩn cũng theo cách đó. Vì vậy nói Uẩn di chuyển cũng không
sai, vì như trên đã chứng minh rằng: Mặc dù bản ngã không tồn tại nhưng sự luân
chuyển của các Uẩn, dưới ảnh hưởng của hành động vô minh, vẫn đi vào trong bụng
mẹ.
Trên đây chỉ là một đoạn ngắn trích ra từ một đoạn của toàn bộ lập luận kéo
dài nhiều trang. Bồ Tát Thế Thân tìm cách chứng minh sự khẳng định của kiếp sống
ở trạng thái trung gian bằng cách trích dẫn các kinh. Nhiều lần, các kinh nói về
một vị A la Hán sau khi chết, đã đi từ một Trạng Thái Trung Gian cuối cùng để
vào Niết Bàn. Bồ Tát Thế Thân và những trường phái triết học Phật giáo xuất phát
từ lập luận của Ngài, nhận thấy ở sự khẳng định Trạng Thái Trung Gian mà mọi
chúng sanh đều được thụ hưởng sau khi chết.
Còn một loạt tông phái phủ nhận kết luận như trên, phát xuất từ những đoạn đã
được đề cập. Ðó là những Phật tử Tiểu Thừa (Theravadin), Phật tử Mahasamghias,
Lokottaravadin, đó là những tông phái nổi tiếng nhứt.
Quan điểm về Trạng Thái Trung Gian cũng thấy xuất hiện trong những Văn bản
khác của kinh Ðại Thừa, thí dụ trong Bođdhisattvabhumi có trước ít lâu so với
kinh Abhidharmakosa trong đó nói rõ :
- Những người chết đi vào trạng thái Trung Gian.
Trong tác phẩm Vijptimatralasđdhi, trạng thái Trung gian là một biểu hiện của
thực tại. Tuy ở đó còn tranh luận về việc Ngũ Uẩn chuyển từ trạng thái sống sang
trạng thái Trung Gian, đặc biệt trong trường hợp tái sanh. Như vậy Phật giáo xem
kiếp người là phương tiện để giải thoát khỏi một chuỗi vô tận gồm những giai
đoạn ngắn ngũi thoáng qua và bị phụ thuộc vào Ngũ Uẩn của kiếp sống. Ngũ Uẩn nầy
tạo nên toàn bộ bản chất thể xác và tâm linh của từng liếp sống cá nhân. Nhưng
dù sao cũng không nên xem Ngũ Uẩn là những vật có thể cầm nắm được. Ðúng hơn,
chúng là những phạm trù giúp cho sự suy nghĩ nắm bắt dễ hơn các giai đoạn của
kiếp sống. Và do các phạm trù nầy được giải phóng khỏi sự phụ thuộc lẫn nhau vào
lúc chết, nên người ta có thể nhằm lẫn vào lúc chết mà cho rằng chúng tồn tại
liên tục.
Nhưng trên thực tế, chỉ những giai đoạn của Sắc Uẩn là bị gián đoạn, ít nhất
là trong trường hợp của vật chất thô. Ngay lúc xuất hiện ở những giai đoạn tinh
vi hơn, cũng thuộc về Sắc Uẩn, đó là Bardo Thodol nói về hình dạng của một cái
hủ hay một Thân Trí Huệ của người chết. Còn bốn Uẩn kia -- Thọ, Tưởng, Hành,
Thức -- đều thuộc về giới tâm linh cho nên sự tiếp tục của chúng sau khi chết, ở
trạng thái Trung gian, là điều không phải bàn cải. Kiếp sống cá nhân dù ở trạng
thái Sống, trạng thái Chết hay trạng thái Trung Gian hay trạng thái Tái Sinh,
chính là do sự hợp thành bởi những giai đoạn của năm Uẩn. Quan niệm về một bản
ngã trường tồn như một hạt nhân không thay đổi cá tính con người, không có chỗ
đứng trong cách nhìn như trên về kiếp người. Ở đây cũng không cần giải thích
Giáo Lý về Chân Không. Chỉ cần đơn giản xác định rõ ràng điều khẳng định trên
đây của Sách Tây Tạng về Người Chết dựa trên nguyên lý cơ bản của triết học Phật
Giáo.
Giáo Lý Về Nhân Quả
Bardo Thodol thường nhắc đi nhắc lại rằng những hành động của con người khi
còn sống, bao gồm cả hành động bằng thân, lời nói và ý nghĩa, sẽ quyết định số
phận của anh ta trong trạng thái Trung Gian sau khi chết và khả năng tái sinh.
Tất cả các hệ thống triết học Ấn Ðộ đều xác nhận rằng các hành động không những
ảnh hưởng ngay tức thời, mà tiềm năng của chúng còn bộc lộ về sau nầy trong
những hoàn cảnh thích hợp, trong đó mỗi hoàn cảnh là hậu quả của nguyên nhân gây
ra nó. Toàn bộ chuổi nhân quả ấy gọi là Nghiệp (karma). Như đã nói ở trên, giáo
lý về Nghiệp ở Ấn Ðộ được công nhận và phổ biến trong tất cả hệ thống Phật giáo.
Người chết chỉ thoát khỏi trạng thái Trung Gian khi tiềm năng của các nhãn
quan tâm linh cần thiết đề nhận biết tất cả mọi Linh ảnh xuất hiện như tỏa ra từ
chính bản chất tâm linh của anh ta. Ngược lại, nếu các hành động đã qua của anh
ta làm mạnh hơn cái xu hướng vô minh, nghĩa là Tham, Sân, và Si (Ngu dốt), thì
tất cả các hình ảnh xuất hiện chỉ gây cho anh ta sự sợ hãi và lo âu, và anh ta
không thể đạt đến cái nhìn sâu sắc.
Lkagmthon vipassiana được bao gồm trong sự hoàn hảo của trí tuệ. Giáo lý của
Bardo Thodol như vậy không có mâu thuẩn với giáo lý về Nghiệp. Văn bản chỉ đơn
giản muốn trình bày rõ ràng, mỗi một nghiệp có thể được trung hòa trong những hệ
quả của nó, bằng sức mạnh của cái nhìn sâu sắc (Trí tuệ).
Hành động với tính cách là nguyên nhân của vô số hiện tượng, ở đây không phải
hiểu theo nghĩa một hành động đơn giản trần trụi, mà chính là cái ý nghĩa nằm
trong từng hành động, nó làm cho hành động xuất phát, đó là cái cần xem xét.
Trong mỗi hành động có bao hàm một ý chí, một ý muốn, một sự muốn bắt tay vào
hành động, nó đi trước; và cái ý đồ ấy, chính nó chứa đựng tiềm năng thúc đẩy
hành động lập lại lần nữa.. .
Khi người chết cảm thấy sợ hãi và lo lắng trước tính chất của Linh ảnh xuất
hiện trong trạng thái Trung gian, anh ta sẽ quyết định tiềm năng của một Nghiệp
mới, nó thúc đẩy anh ta tái sinh. Nhưng nếu anh ta nhận biết rằng tất cả Linh
ảnh đó tỏa ra từ chính Bản chất Trí tuệ của mình, Cái nhìn sâu sắc (Trí tuệ) của
anh ta sẽ thoát khỏi mọI ham muốn, và do đó không có một năng lượng giả nào được
phóng ra. Trong một Hành động, thì chỉ một thời gian ngắn sau khi chết, được ở
trong trạng thái cực kỳ sáng suốt, anh ta có thể đạt đến sự giải thoát chủ yếu :
- Giải thoát khỏi cái khổ của kiếp luân hồi (cõi ta bà), nghĩa là một chuỗi
dài sinh tử nối tiếp, giải thoát khỏi các ảo ảnh. Và do sự kiện đó, anh ta sẽ
trở thành một vị Phật.
Vị Lạt Ma chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là nhắc cho người hấp hối, hoặc người
chết, những lời giáo huấn của anh ta đã nghe khi còn sống và những kinh nghiệm
mà anh ta đã trải qua. Vị Lạt Ma làm chức năng của một người thông báo. Ông ta
không phải là người chữa bệnh, không phải là phù thủy, mà cũng không phải là vị
cứu tinh: Người hấp hối hoặc người chết phải tự mình, đơn độc đi tới Chỗ đạt
được Cái nhìn sâu sắc ấy. Tuy nhiên, vị Lạt Ma có thể nâng cao tư tưởng người
chết, giống như người nhắc tuồng trong rạp hát, ông nhắc thầm cho người chết
biết rõ sẽ có những hình ảnh nào xuất hiện trước mắt anh ta và cần phải hiểu
chúng như thế nào. Dĩ nhiên tất cả những thông báo của vị Lạt Ma đều vô ích nếu
như người chết khi còn sống đã không chuẩn bị cho mình có lòng tin vào những vấn
đề của Bardo Thodol.
Văn bản luôn nhắc đi nhắc lại rằng ngay lúc còn sống, việc quan trọng là phải
nghiên cứu, phải thấm nhuần và phải thực hành những pháp thiền định để giúp
người chết đạt được nhãn quan sâu sắc, mở được con mắt bên trong: Ðó là Chuyễn
Thức (Xuất Hồn).
II. TẠNG THƯ SỐNG CHẾT : CHẾT VÀ TÁI SINH
( Sogyal Rinpoche, tr. 355- 366 )
1). Nền Tảng: Chúng ta thường nghe những câu nói như: Chết là lúc
nói sự thật hay Chết là thời điểm ta đối mặt với chính ta. Như ta đã thấy những
người qua kinh nghiệm cận tử, đôi khi kể lại rằng họ chứng kiến cả cuộc đời họ
quay lại trước mắt, và họ được hỏi những câu như, Ngươi đã làm gì với cuộc đời
ngươi? Ngươi đã làm gì cho người khác? Tất những chuyện nầy ám chỉ một điều duy
nhất rằng khi chết, ta không thể tránh thoát đối diện với sự thật ta là ai, ta
là gì. Dù ta muốn hay không, bản chất thực của ta cũng hiển lộ. Nhưng điều quan
trọng cần biết là có hai khía cạnh con ngườI của ta hiển lộ vào lúc chết : bản
chất tuyệt đối của ta, và bản chất tương đối -- ta hiện tại như thế nào, và đã
như thế nào, trong cuộc đời.
Như tôi đã giải thích, khi chết tất cả những hợp thể của thân tâm đều bị tước
bỏ, phân tách. Khi thân xác chết, giác quan và đại chủng vi tế tan rả, tiếp theo
đó là cái chết của các khía cạnh tâm thông thường (nhãn thức v. v.. )
Vốn với những cảm xúc tiêu cực của nó như tham, sân, si, vì mọi thế sự vây
phủ cái tâm giác ngộ đã rơi rụng. Và khi ấy, cái được hiển bày là nền tảng tối
sơ của bản chất tuyệt đối chúng ta, như một bầu trời trong sáng không mây. Ðiều
nầy gọi là sự xuất hiện Ánh Sáng Căn bản, hay Ðiểm Linh Quang, khi chính tâm
thức cũng tan vào trong không gian bao la của chân lý. Tử Thư Tây Tạng nói về
giây phút nầy như sau:
Bản chất vạn pháp là khoáng đạt, trống rỗng, trơ trọi như bầu trời.
Sự trống rỗng sáng chói, không có tâm điểm hay chu vi :
Tính giác của Tâm, hay Rigpa, xuất hiện.
Padmasambhava mô tả ánh sáng ấy như sau :
Ðiểm Linh Quang tự - sinh ấy, từ khởi thủy chưa từng sinh
Là con đẻ của Rigpa, tự nó không cha mẹ - lạ lùng thay!
Trí tuệ tự sinh ấy chưa từng được ai tạo ra - lạ lùng thay!
Nó chưa từng sinh, và không gì trong nó để gây ra sự chết - lạ lùng thay!
Nó thấy mà không ai là ngườI thấy nó - lạ lùng thay!
Nó du hành qua sinh tử mà không hại gì - lạ lùng thay!
Nó thấy Phật tính, nhưng không lợi gì - lạ lùng thay!
Nó hiện hữu trong mọI ngườI mọi nơi, mà không ai nhận ra nó - lạ lùng thay!
Người ta lại mong đạt một kết quả nào khác bên ngoài
-- lạ lùng thay!
Mặc dù nó là một vật của bạn, bạn lại đi tìm nó ở chỗ khác - lạ lùng thay!
Vì sao trạng thái được gọi là Ánh Sáng hay Ðiểm Linh quang? Các bậc thầy có
nhiều cách giải thích khác nhau. Có vị bảo rằng nó biểu thị sự sáng chói của tự
tánh tâm hoàn toàn thoát khỏi bóng tối mê mờ: thoát khỏi bóng tối vô tri và có
khả năng trí giác. Một bậc thầy khác tả ánh sánghay linh quang là một trạng thái
ít phân tán nhất, vì tất cả các đại chủng, giác quan, đối tượng giác quan đã tan
rả. Ðiều quan trọng là xin đừng lẫn lộn nó với ánh sáng vật lý mà ta biết hay
những kinh nghiệm về ánh sáng mà ta thấy trong Bardo. Ánh sáng khởi lên vào lúc
chết là tia tự chiếu của tính giác Rigpa trong ta, tự tánh vô vi hiện diện suốt
trong sinh tử và niết bàn.
Sự xuất hiện Ánh Sáng hay Ðiểm Linh Quang vào lúc chết là cơ hội ngàn năm một
thuở để giải thoát. Nhưng điều cốt yếu là phải nhận ra cơ hộI ấy được cống hiến
cho ta trong những điều kiện nào. Một vài nhà văn và nhà nghiên cứu tân thời về
cái chết đã coi thường sự sâu sắc của giây phút ấy. Vì họ đọc và giải thích Tử
Thư Tây Tạng mà không được chỉ giáo khẩu truyền, không tu tập để hiểu ý nghĩa
thiêng liêng của nó, nên họ đã đơn giản quá mức và nhảy bổ đến những kết luận
vội vàng. Họ cho rằng sự xuất hiện Ánh sáng Căn bản chính là giác ngộ. Tất cả
chúng ta đều ưa đồng hóa cái chết với thiên đường hay giác ngộ; nhưng điều quan
trọng hơn sự mong ước ấy, là phải biết rằng chỉ khi chúng ta đã thực sự được
khai ngộ bản tâm, hay tính giác Rigpa, chỉ khi chúng ta đã an trú nó nhờ thiền
định và thể nhập nó trong đời sống hàng ngày của ta, thì cái thời điểm chết mới
thực sự đem lại cơ hội để giải thoát.
Mặc dù Ánh Sáng Căn bản hiện ra cho tất cả chúng ta một cách tự nhiên, song
phần đông chúng ta hoàn toàn không sẵn sàng để đón nhận tính bao la thuần túy
của nó, chiều sâu rộng vi tế, tính giản dị sơ nguyên của nó. Ða số chúng ta
không có cách gì để nhận ra nó, vì trong đời chúng ta chưa từng quen thuộc với
những phương thức nhận ra nó. Khi ấy, điều xãy đến là, theo bản năng, chúng ta
có khuynh hướngphản ứng lại do những nỗi sợ hãi quá khứ của ta, do tập quán,
hoàn cảnh,tất cả những phản xạ củ của ta. Mặc dù xuất hiện những cảm xúc tiêu
cực có chết đi thì ánh sáng căn bản mới xuất hiện, song tập quán của nhiều đời
vẫn còn, ẩn nấp trong hậu trường của tâm thường tình chúng ta. Mặc dù mọi rối
ren mờ mịt của chúng ta chết đi lúc thân ta chết, song thay vì quy phục, đón
nhận ánh sáng, thì sợ hãi và vô minh, chúng ta lùi lại, và theo bản năng, bám
lấy những gì ta đã từng bám giữ. Ðấy chính là nguyên nhân ngăn cản chúng ta lợi
dụng thời điểm mảnh liệt nầy làm cơ hội giải thoát. Padma-
Sambhava nói: Tất cả hữu tình đã sống và chết vô số lần. Chúng ta đã nhiều
lần kinh nghiệm Ánh Sáng khôn tả nầy. Nhưng vì bị bóng tối vô minh làm mờ mịt,
chúng vẫn lang thang bất tận trong sinh tử.
2). Nền Tảng Của Tâm Phàm Tình:
Tất cả những khuynh hướng tập quán ấy, hậu quả của ác nghiệp chúng ta, tuôn
phát từ vô minh, được chất chứa trong nền tảng của tâm phàm tình. Tôi vẫn thường
không biết lấy gì làm ví dụ thích hợp để mô tả tâm phàm tình. Bạn có thể ví nó
với một cái bọt thủy tinh trong suốt, một tấm màn rất mỏng manh che mờ toàn thể
tâm ta; song có lẻ hình ảnh hay nhất là một cái cửa kính. Tưởng tượng bạn đang
ngồi trước cửa kính dẫn ra vườn, nhìn ra cửa để ngấm trời. Dường như không có gì
giữa bạn và bầu trời, vì bạn không thấy mặt gương. Nhưng nếu bạn đứng dậy đi ra
vườn, bạn có thể đụng lỗ mũi bạn vào tấm kính, vì tưởng là không có gì. Khi vừa
chạm, bạn mớI thấy có vật gì ở đây giữ lại dấu tay bạn, một cái gì đứng chắn
giữa bạn và không gian bên ngoài.
Cũng thế, nền tảng của tâm phàm tình ngăn cản chúng ta không đi vào bản chất
tuyệt đối như bầu trời của tâm, dù chúng ta vẫn thoáng thấy nó. Như tôi đã nói,
các bậc thầy giải thích rằng có mối nguy là những thiền giả có thể lầm lẫn nền
tảng tâm phàm tình với tính giác đích thực của tâm. Khi họ an trú trong trạng
thái an tĩnh vắng lặng, thì họ có thể chỉ an trú trong nền tảng tâm phàm tình.
Ðấy là sự khác nhau giữa nhìn trời từ một vòm kính, và đứng ra giữa trời mà
nhìn. Chúng ta phá vỡ hoàn toàn nền tảng của tâm phàm, để khám phá và thở bầu
trời và thở bầu không khí tươi mát của tính giác Rigpa.
Bởi thế mọi sự tu tập của chúng ta là chuẩn bị thực sự cho lúc chết, là thanh
lọc cái rào ngăn vi tế ấy, dần dần làm cho nó suy yếu và cuối cùng sụp đỗ. Khi
bạn đã phá đỗ nó hoàn toàn, thì không có gì ngăn cách bạn với trạng thái toàn
giác.
Sự khai thị bản tâm của bậc thầy phá vỡ hoàn toàn nền tảng tâm phàm tình ấy,
vì chính nhờ sự tan rã của tâm phân biệt khái niệm mà tâm giác ngộ được hiển bày
một cách rõ ràng. Rồi khi chúng ta càng an trú tính giác bản tâm, thì nền tảng
tâm phàm tình ấy càng yếu. Nhưng ta sẽ thấy, sự an trú lâu hay mau trong trạng
thái tâm bản nhiên ấy hoàn toàn tùy thuộc vào việc tu tập hàng ngày của ta. Rủi
thay những tập quán củ rất khó bỏ, và nền tảng tâm phàm tình cứ quay trở lại;
tâm ta như một bợm nhậu chỉ có thể đá đỗ dò rượu trong chốc lát, nhưng lại rơi
vào thói nghiện ngập trở lại mỗi khi bị cám dỗ hay buồn sầu.
Cũng như cánh cửa kính dính đày dấu vết bụi dơ từ nơi những bàn tay và ngón
tay ta, nền tảng tâm phàm tình cũng chứa nhóm tất cả nghiệp và thói quen của ta.
Và cũng ta phải tiếp tục lau kính luôn luôn, ta phải luôn luôn thanh lọc nền
tảng tâm phàm tình. Sự thực tập thiền cũng như thể là làm cho tấm cửa kính bị
mòn dần, những lỗ hổng xuất hiện, và nó bắt đầu tan rã. Nhờ thực tập, chúng ta
dần an trú vững vàng trong tính giác bản nhiên hơn nữa, đến nỗi nó không còn là
bản tính tuyệt đối của chúng ta, mà nó trở thành thực tại hàng ngày của ta. Khi
tình trạng nầy xảy đến, thì những thói cũ của ta càng tan biến, và càng có ít sự
khác biệt giữa thiền định và sự sống hàng ngày. Dần dần, bạn trở thành như một
người có thể đi thẳng ra vườn xuyên qua cửa kính, không bị chướng ngại. Và cái
dấu hiệu tâm phàm tình suy yếu là khi ta có thể an trú không nỗ lực trong tự
tính của tâm.
Khi Ánh Sáng Căn bản ló dạng, thì vấn đề then chốt sẽ là mức độ an trú tự
tính nơi ta, mức độ hợp nhất bản chất tuyệt đối và đời sống hàng ngày nơi ta, để
thể nhập trạng thái trong sáng nguyên uỷ.
3). Mẹ Con Gặp Gở :
Có một phương pháp theo đó chúng ta có thể sẵn sàng chuẩn nhận ra khi Ánh
Sáng Căn bản xuất hiện vào lúc chết. Ðấy là phương pháp thiền tối thượng, kết
quả tối hậu của pháp hành trì Dzogchen. Phương pháp ấy gọi là hợp mhất giữa hai
ánh sáng, hay còn gọi là Sự tan hoà giữa Ánh sáng Mẹ và Ánh sáng Con.
Ánh sáng Mẹ là cái tên đặt cho Ánh sáng Căn bản. Ðó là bản chất nội tại của
mọi vật, nằm bên dưới toàn thể kinh nghiệm của ta, và thể hiện trong vẻ sáng
ngời nguyên vẹn của nó vào lúc chết.
Ánh sáng Con, còn gọi là Ánh sáng Ðạo lộ, là tự tánh của tâm ta, cái mà nếu
được thầy khai thị và chúng ta trực nhận, thì ta có thể dần dần an trú nó nhờ
thiền định, và càng ngày càng hội nhập nó vào sự sống hàng ngày của ta. Khi sự
hội nhập đã được toàn triệt, thì trực nhận cũng toàn triệt, và sự chứng ngộ xãy
đến.
Mặc dù Ánh sáng Căn bản là bản chất nội tại của ta và là bản chất của mọi sự
vật, song ta không nhận ra nó, thành thử hầu như nó bị khuất lấp. Tôi muốn nghĩ
đến Ánh sáng Con như là cái chìa khóa mà bậc thầy trao cho bạn, để cánh cửa nhận
thức, để bạn nhận ra được Ánh sáng Căn bản, mỗi khi gặp cơ hội.
Hãy tưởng tượng bạn phải đi đón một phụ nữ đến bằng phi cơ. Nếu bạn không
biết bà ấy ra sao, thì bạn có thể đến phi trường nhưng vẫn hụt đón vì bà ta đã
đi qua mà bạn không biết. Nếu bạn có một tấm ảnh giống bà ta, hoặc có hình ảnh
bà ta trong trí bạn, thì bạn có thể nhận ra bà ấy ngay khi bà ta tiến đến.
Một khi tự tánh tâm đã được khai thị cho bạn, và bạn đã trực nhận, tức là bạn
có chìa khóa để trực nhận lần khác. Nhưng, cũng như bạn phải giữ gìn tấm ảnh và
nhìn nó luôn luôn, để cho chắc bạn có thể nhận ra người bạn sắp gặp ở phi
trường; cũng vậy bạn phải tiếp tục an trú sự trực nhận tâm bản nhiên (tự tánh
tâm) qua sự thường xuyên thực tập. Khi ấy sự trực nhận trở thành thâm căn cố đế
nơi bạn, thành một phần của bạn, đến nỗi gặp là nhận ra ngay không cần bức ảnh.
Vậy, sau khi thực hành sự trực nhận bản tâm đã thuần, thì vào lúc chết, khi Ánh
sáng Căn bản xuất hiện, bạn có thể nhận ra nó và hòa nhập với nó một cách tự
nhiên như con thơ sà vào lòng mẹ, các bậc cổ đức có nói, hay như gặp bạn cố tri,
hay như sông chảy vào biển.
Nhưng điều nầy thật vô cùng khó khăn. Cách duy nhất để bảo đảm sự trực nhận
ấy là ngay khi ta còn sống, phải kiện toàn sự luyện tập hội nhập hai ánh sáng.
Ðiều nầy chỉ khả dĩ nhờ cả một đời nỗ lực tu luyện. Thầy tôi, Dudjom Rinpoche
nói rằng nếu chúng ta không thực tập hòa nhập hai ánh sáng ngay bây giờ, và từ
đây về sau, thì đừng nói đến chuyện sự trực nhận sẽ tự nhiên xảy đến vào lúc
chết.
Nhưng hội nhập hai ánh sáng nghĩa là gì? Ðây là một pháp tu luyện rất sâu xa
và cao cấp, và đây không phải chỗ để bàn chi tiết về điều ấy. Nhưng ta có thể
nói điều nầy: Khi bậc thầy khai thị bản tâm ta, thì cũng như chữa lành mắt ta,
vì ta đã bị mù đối với Ánh sáng Căn bản nằm trong tất cả mọi sự. Sự khai thị của
bậc thầy đánh thức con mắt tuệ trong ta, nhờ vậy ta thấy được rõ ràng bản chất
thực của mọi sự, hay thực chất Ánh sáng -- điểm Linh Quang -- của mọi cảm xúc,
và ý tưởng trong ta. Hãy tưởng tượng, nhờ thực tập toàn hảo sự an trú bản tánh,
mà sự trực nhận bản tánh ấy giống như một vừng mặt trời rực rở. Tư tưởng và cảm
xúc vẫn tiếp tục sanh khởi, chừng như những đợt sóng đen tối. Nhưng mỗi khi
những đợt sóng ấy cuộn lên và gặp ánh mặt trời, thì chúng lại tan ngay.
Nếu nền tảng tâm phàm tình của ta được hoàn toàn thanh lọc, thì cũng giống
như ta đã phá tan cái kho chứa nghiệp của mình và không còn nguyên liệu nghiệp
để cung cấp cho tái sanh tương lai. Nhưng nếu ta có thể hoàn toàn thanh lọc tâm,
thì sẽ còn tàn dư của những khuynh hướng tập quán cũ đang nằm trong kho chứa
nghiệp của chúng ta. Khi gặp điều kiện thích hợp, chúng sẽ xuất hiện để đẩy
chúng ta vào những tái sinh mới.
4). Thời Gian Và Ánh Sáng Căn Bản:
Ánh sáng căn bản xuất hiện, đối với hành giả, nó kéo dài bao lâu vị ấy an trú
không tán loạn vào tự tánh tâm. Nhưng đối với phần đông, nó kéo dài không lâu
hơn một búng tay, và với vài người, nó kéo dài khoảng một bữa ăn. Phần đông
người tuyệt nhiên không nhận ra Ánh sáng Căn bản, thay vì thế, họ rơi vào một
trạng thái ngất xĩu có thể kéo dài ba ngàyrưỡi. Sau đó thần thức mới rời khỏi
thể xác.
Do vậy ở Tây Tạng có tục lệ không động thi thể trong ba ngày sau khi chết.
Ðiều nầy rất quan trọng, nhất là nơi một hành giả, vì có thể họ hòa tan với
Ánhsáng Căn bản và ở trong trạng thái tâm bản nhiên. Tôi còn nhớ ở Tây Tạng
người ta thường giữ bầu không khí tuyệt đối thanh bình im lặng quanh xác chết
như thế nào, nhất là khi đó là xác một bậc thầy hay hành giả tu cao, để tránh sự
quấy rầy dù nhỏ nhất.
Nhưng dù là thi thể của người thường cũng không nên di chuyển trong vòng ba
ngày sau khi chết, vì ta không thể biết được ai đã chứng ai chưa, và cũng không
chắc thần thức đã rời khỏi xác. Người ta tin rằng nếu sờ vào một nơi nào trên
thi thể -- ví dụ chích một mũi thuốc -- thì thần thức có thể bị lôi kéo đến chỗ
ấy. Khi đó thần thức người chết có thể chui ra lỗ hỗng gần nhất để thoát ra
ngoài thay vì thoát lên đỉnh đầu, và vì vậy sẽ có một tái sanh bất hạnh. Một vài
bậc thầy nhấn mạnh đến chuyện để thi thể yên trong ba ngày.
5). Cái Chết Của Một Thầy:
Một hành giả đã chứng đắc thường tiếp tục an trú sự trực nhận tính giác bản
tâm vào lúc chết, và tĩnh thức để thể nhập Ánh sáng căn bản khi nó xuất hiện. Vị
ấy trú trong trạng thái ấy một vài ngày. Một vài hành giả và bậc thầy chết trong
tư thế ngồi thiền lưng thẳng, hoặc nằm như dáng sư tử ngủ. Ngoài sự tuyệt đối tự
chủ, còn những dấu hiệu khác chứng tỏ vị ấy đang an trú trong trạng thái Ánh
sáng Căn bản: Gương mặt họ vẫn còn có sắc sáng, mũi không lún vào, da vẫn mềm
mại, thân thể không cứng đờ, đôi mắt vẫn giữ một ánh sáng hiền hậu từ bi và tim
vẫn còn hơi ấm. Người ta phải rất thận trọng đừng chạm đến nhục thể của bậc
thầy, và giữ im lặng cho đến khi vị ấy ra khỏi trạng thái thiền định nầy.
-ooOoo-